Xem Nhiều 3/2023 #️ Từ Ngữ Thú Vị (11 # Top 6 Trend | Topcareplaza.com

Xem Nhiều 3/2023 # Từ Ngữ Thú Vị (11 # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Từ Ngữ Thú Vị (11 mới nhất trên website Topcareplaza.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

20. Canary in the coal mine

Đây là thành ngữ chỉ một dấu hiệu cảnh báo sớm cho thấy một điều nguy hiểm nào đấy đang đến gần. Thành ngữ này bắt nguồn từ việc các thợ mỏ ở các nước phương Tây trước kia có thói quen mang một lồng chim hoàng yến (canary) xuống hầm mỏ. Khi lượng khí độc như methane hay CO2 trong hầm vượt quá nồng độ an toàn thì con chim hoàng yến sẽ chết trước, giúp thợ mỏ nhận ra nguy hiểm và kịp thời rút ra khỏi hầm.

Ví dụ: In some exceptional cases, democracy could be at risk. The canary in the coal mine may be Hungary, which has come under intense criticism for Prime Minister Viktor Orban’s efforts to consolidate his party’s hold on power. (Trong một số ngoại lệ, nền dân chủ có thể đối mặt với rủi ro. Một nhân tố cảnh báo sớm có thể là Hungary, đất nước đã phải chịu nhiều chỉ trích vì Thủ tướng Viktor Orban đang cố gắng củng cố sự cầm quyền của Đảng mình).

19. Beggar-thy-neighbor policy

Đây là từ để chỉ các chính sách có lợi cho nước mình nhưng có hại cho các nước láng giềng. Một ví dụ điển hình là việc phá giá đồng nội tệ sẽ giúp một nước tăng xuất khẩu, nhưng đồng thời sẽ làm giảm sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của các nước láng giềng.

Ví dụ: Rising populism and nationalism would inhibit regional cooperation and make beggar-thy-neighbor policies much more likely. (Sự gia tăng chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa dân tộc sẽ ngăn cản hợp tác khu vực và dễ dẫn đến các chính sách có lợi cho mình nhưng có hại cho láng giềng hơn).

18. Pork barrel politics

17. Bondholder haircut.

16. Rapprochement

Một số bạn khi dịch các bài về quan hệ Mỹ – Trung đã dịch từ “Sino-American rapprochement” là “bình thường hóa quan hệ Mỹ – Trung”. Dịch như vậy không thật chính xác mà phải dịch “rapprochement” là “quá trình xích lại gần nhau” giữa hai nước, vì thực tế quá trình này (rapprochement) bắt đầu từ khoảng (trước) 1972, với việc diễn ra chuyến thăm của Nixon tới Bắc Kinh và ngoại giao bóng bàn giữa hai nước, trong khi việc bình thường hóa chính thức (normalization) phải tới đầu năm 1979 mới diễn ra.

15. Quisling regime

Từ này bắt nguồn từ Vidkun Quisling (1887–1945), nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Na Uy trước 1941, người đã làm thủ tướng trong một chính phủ hợp tác với Đức Quốc xã trong phần lãnh thổ Na Uy bị Đức chiếm đóng trong Thế chiến II, từ năm 1941 đến năm 1945. Từ “Quisling” sau đó được dùng để mô tả các các chế độ bù nhìn bản địa được dựng lên để hợp tác với Đức Quốc xã (như ở Pháp, Hi Lạp, Nam Tư… trong Thế chiến II) nói riêng, hay các chế độ hợp tác với kẻ thù nói chung.

14. Burgher

Đây là từ chỉ những người thuộc tầng lớp thị dân sống trong các thành phố (thường có tường thành bao quanh) ở Châu Âu thời kỳ Trung Cổ. Từ này bắt nguồn từ chữ burgh trong tiếng Đức hay Hà Lan (chuyển thành burg trong tiếng Anh), nghĩa là các thành phố, thị trấn như vậy.

Từ “burgh” hoặc “burg” xuất hiện trong tên nhiều thành phố ở Mỹ và Châu Âu, ví dụ như Pittsburgh (thành phố của Pitts), hay tương tự là Petersburg, Endinburg…

13. Tulip mania (Cơn sốt hoa tulip)

Đây là từ chỉ cuộc đầu cơ hoa tulip diễn ra ở Hà Lan trong Thời kỳ hoàng kim của Hà Lan (TK 17), theo đó giá hợp đồng của hoa tulip, lúc đó mới được đưa vào trồng ở Hà Lan, đã tăng vọt tới mức bất thường rồi đột ngột sụp đổ. Đây nhìn chung được coi là bong bóng đầu cơ đầu tiên được ghi lại trong lịch sử. Thuật ngữ này ngày nay được dùng như một cách nói ẩn dụ để chỉ các bong bóng kinh tế lớn.

12. Samizdat

Đây là từ chỉ các ấn phẩm, báo chí bí mật, hoặc bị cấm, ngoài luồng, do các (nhóm) cá nhân tự xuất bản mà không được chính quyền cho phép lưu hành chính thức. Được mượn từ tiếng Nga, từ này gồm hai phần: sam (nghĩa là tự) và izdat (viết tắt của từ izdatel’stvo, nghĩa là nhà xuất bản).

11. Phân biệt hai từ “Muslim” và “Islamist”:

– Muslim là từ chỉ các tín đồ theo đạo Hồi nói chung – Islamist là từ để chỉ những người theo tư tưởng chính trị Hồi giáo, muốn biến Hồi giáo thành nền tảng định hướng đời sống chính trị – xã hội của một quốc gia.

Giáo Án Môn Ngữ Văn 11

Giúp học sinh hiểu được:

– Hiểu được bi kịch Chí Phèo và tình cảnh khốn cùng của người nông dân trước cách mạng cũng như sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn;

– Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm qua đoạn trích.

– Thấy được một số nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của truyện ngắn Nam Cao: Xây dựng nhân vật điển hình, khắc họa nhân vật chủ yếu qua diễn biến tâm lí; dânc chuyện linh hoạt, tự nhiên; ngôn ngữ giản dị, độc đáo.

Rèn cho học sinh kĩ năng tóm tắt tác phẩm tự sự và phân tích văn bản tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn.

– Bồi đắp tình yêu thương con người, sự cảm thông với số phận của những con người nghèo khổ, bất hạnh.

* Trọng tâm kiến thức tiết 2:

– Bi kịch tự ý thức của nhân vật Chí Phèo:

+ Bi kịch thức tỉnh lương tâm khi gặp gỡ thị Nở

+ Bi kịch bị cự tuyệt làm người và hành động giết Bá Kiến rồi tự sát

– Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

– Thành công nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Tiết 49,50 Đọc văn: CHÍ PHÈO - Nam Cao (Tiết 2) Ngày soạn: 26.10.2010 Ngày giảng: 02.11.2010 A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT Giúp học sinh hiểu được: 1. Kiến thức: - Hiểu được bi kịch Chí Phèo và tình cảnh khốn cùng của người nông dân trước cách mạng cũng như sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn; - Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm qua đoạn trích. - Thấy được một số nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của truyện ngắn Nam Cao: Xây dựng nhân vật điển hình, khắc họa nhân vật chủ yếu qua diễn biến tâm lí; dânc chuyện linh hoạt, tự nhiên; ngôn ngữ giản dị, độc đáo. 2. Về kĩ năng: Rèn cho học sinh kĩ năng tóm tắt tác phẩm tự sự và phân tích văn bản tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn. 3. Thái độ: - Bồi đắp tình yêu thương con người, sự cảm thông với số phận của những con người nghèo khổ, bất hạnh. * Trọng tâm kiến thức tiết 2: - Bi kịch tự ý thức của nhân vật Chí Phèo: + Bi kịch thức tỉnh lương tâm khi gặp gỡ thị Nở + Bi kịch bị cự tuyệt làm người và hành động giết Bá Kiến rồi tự sát Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Thành công nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. II. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN SGK, SGV, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức Ngữ văn 11NC, Thiết kế bài học, các TLTK khác Máy chiếu, tranh ảnh, chân dung Nam Cao, nhân vật Chí Phèo, III. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH - IV. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP Ổn định tổ chức Lớp 11A3 Vắng:. Kiểm tra bài cũ Bài mới: Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt KT bổ sung Hoạt động 1: GV HD học sinh tìm hiểu tiếp hình tượng nhân vật CP theo nd tiếp nối từ t1 Khi xd nhân vật Chí Phèo NC làm nổi bật bk Chí trong mối quan hệ với những nhân vật nào? ý nghĩa? - HS: CP - Bá Kiến à Bk bị tha hóa, lưu manh hóa CP - thị Nở - BK thức tỉnh Từ đó em hãy xác định hoàn cảnh tạo nên cuộc gặp gỡ đặc biệt này? GVD: Cuộc đời Chí tưởng chừng chết mòn trong sự ruồng bỏ của đồng loại, trong tăm tối và tội lỗi nhưung vào 1 đêm trăng trong lúc say khướt CP gặp thị Nở một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ à tạo nên bước ngoặt đầy bất ngờ trong tính cách Chí Phèo Sau trận ốm Chí Phèo có sự biến đổi tâm lí như thế nào? Tìm chi tiết phân tích Chí thấy lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn đó chính là sự thức dậy của cảm giác tâm hồn bấ lau nay bị ngủ quên giờ thức tỉnh GVG: Đâu chính là những tiếng gọi của cuộc sống bình dị từng là mơ ước của Chí Phèo. Những âm thanh này hôm nào chả có nhưng với Chí đây là lần đầu tiên Chí cảm thấy è ý nghĩa vô cùng sâu sắc Cuộc sống bình dị có tác động như thế nào đến tâm trạng Chí Phèo? GVG: Uớc mơ t/h nguyện vọng sâu xa nhất của người lao động ở nông thôn: người cày có ruộng nó vẫn vẹn nguyên trong chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn Phải chăng đây là lần đầu tiên Chí Phèo nhận thức được hiện thực cuộc đời mình? GVG: Ở đây không chỉ ý thức được hiện tại cuộc đời đáng buồn mà ý thức được cả một tương lai đáng buồn hơn gấp bội. Nếu như bao nhiêu năm nay Chí say thì đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo để ý thức thân phận. Trước đây sống mà hoàn toàn vô thức, Nhưng giờ đây tâm hồn Chí đã hồi sinh sau bao ngày tăm tối. Chí như được sống lại bằng việc cảm nhận được điều bình dị ở cuộc đời này Em có nhận xét gì về nghệ thuật của đoạn văn miêu tả sự thức tỉnh của ChíPhèo? Biến cố tiếp theo nào thúc đẩy sự phát triển trong tâm hồn Chí? Đó là bát cháo hành do người đàn bà xấu xí dở hơi nấu, bát cháo hành của thời kì nghèo đói mang đến cho Chí vì long thương người ốm, vì sự rungđộng mới lạ trong long người đàn bà lần đầu thấy mình có được một người đàn ông Khi thị Nở đến tâm trạng của Chí ntn? Trước đó phải giành giật, ăn cướp, rạch mặt giờ không cần làm gì vẫn được người khác cho, được hưởng sự quan tâm, yêu thương của một con người Tình yêu của thị Nở khơi dậy ở CP cảm giác gì? CP còn nhận ra điều gì như là một khám phá? GV: Xót xa cho thân phận Chí, không có được sự chăm sóc của bất người thân nào (hắn nhận ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon. Nhưng sao mãi bây giừo hắn mới được nếm hương vị cháo. Cháo hành mang hương vị tình người, tình yêu thương chân thành. Nó là sự hiện diện của một tấm long tốt có thật và cần thiết biết bao đối với những người lần đầu tiên được đón nhận như Chí à kẻ sinh ra đã bị tước quyền làm người. Câu văn con là lời óan trách sâu sắc nhữngthế lực vô hình đã tước cái quyền được ăn cháo hành của Chí (CP đã tự đốt cháy mình để thắp sáng ngọn lửa khao khát lương thiện Ý nghĩa của chi tiết bát cháo hành Bát cháo hành làm Chí Phèo thay đổi như thế nào từ sinh lí à tâm lí? Với Chí Phèo thị Nở có vai trò và ý nghĩa ntn? Với việc thức tỉnh bản chất lương thiện trong con quỉ dữ Chí Phèo Nam cao muốn khẳng định điều gì? GVG: TY mà thị Nở dành cho Chí Phèo không hẳn là tình yêu giữa 1 người đàn bà với một người đàn ông mà còn là ân tình giữa người với người à giúp Chí phục sinh tâm hồn một cách bẽn lẽn: Chí khao khát và mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện, Chí hi vọng đây là người mở đường cho hắn, cho hi vọng trở lại làm người Vì sao Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt? Gv: Khao khát làm người lương thiện của Chí mãnh liệt khắc khoải bao nhiêu thì định kiến xã hội dành cho Chí lại tàn nhẫn bấy nhiêu à thứ tội ác ghê gớm chặn đứng hi vọng làm người lương thiện Hiện thực này làm Chí Phèo đau đớn ntn? Bi kịch Chí Phèo đau đớn do đâu? GV: Người cự tuyệt là thị Nở người đàn bà xấu đến ma chê quỉ hờn, đần như người đần trong truyện cổ tích, nghèo khổ, dòng giống mả hủi à nhan sắc, đầu óc đều là con số (-), người làng tránh thị như tránh một conn vật rất tởm. hai con vật tìm đến với nhau nhưng khôngđược xã hội chấp nhận à không ai còn có thể chấp nhận Chí Phèo Em có nhận xét gì về giọt nước mắt của Chí Phèo? Chí khóc tiếng khóc cất lên như xé tan cõn mộng, phá tan cái mông lung mập mờ của một cõi say vô địnhà cảm nhận được nỗi day dứt, uất nghẹn, khóc thương cho sp mình, cuộc tình bạc bẽo, cuộc đời khốn khổ đắng cay, là sự nối tiếp giọt nước mắt lần 1 (thức tỉnh nhân tính). Ta chợt nhậ ra hạnh phúc ở đời không dành sắnc cho những người như Chí Phèo, thị Nở à thông điệp phẫn uất của NC. Em có cảm nhận gì về chi tiết này Ở đây CP tỉnh ngộ ra hai sự thật: muốn làm người lương thiện, không thể làm người lương thiện à đau đớn, tuyệt vọng. Qua chi tiết này NC muốn khẳng định điều gì? Khi nhân phẩm, lương tri đã trở về, Chí không thể quay lại kiếp sống quỉ dữ từ đó kđb/c sức sống lương thiện của con người không gì dập tắt nổi. Vậy thực chất b/c quá trình thức tỉnh của CP ở đây là gì Đây cũng chính là đỉnh cao bi kịch của CP Từ đó Chí Phèo đã có hành động quyết liệt nào? Lần đến nhà Bá Kiến này của Chí Phèo có khác những lần trước đó không? GV; l1: k/v trả thù à xoa dịu; l2: k/v muốn có cơm để mà ăn; l3: đòi lương thiện t/h khát vọng làm người tha thiết Em có nhận xét gì về lời CP nói với BK? Cả đời CP chưa bao giờ dõng dạc như thế, dứt khóat như thế, kiêu hãnh và tự tin như thế. Phải chăng anh canh điền 20 tuổi khỏe mạnh và đầy tự tin đã trở về, trở về để đòi lại thứ quí giá nhất của cđ mình. Muộn rồi CP không thể làm người lương thiện được nữa. Vì sao? (Định kiến xã hội, bộ mặt con vật của Chí) à tuyệt vọng. Chí Phèo tự bạch k/v lương thiện dữ dội. Hành động CP lựa chọn là gì? Có con đường nào khác cho Chí lựa chọn không? GV: Không còn con đường nào khác Chí có thể lựa chọn: Trước đây để tồn tại về thân xác Chí phải bán linh hồn cho quỉ dữ giờ đây lương tri trở về Chí lại phải thủ tiêu c/s. Em hãy nêu ý nghĩa cái chết của Chí Phèo? Thương thay cho Chí Phèo đau khổ cả một đời đến lúac chất vẫn chưa hết khổ, cái chết thật thê thảm "giãy đành đạch giũa bao nhiêu là máu tươi, mắt trợn ngược, mồm ngáp ngáp nhưng không ra tiếngà đầy uất ức "Ai cho tao lương thiện" Câu hỏi ấy ngàn đời còn vang lên. Chí vẫn còn muốn hỏi, những kẻ đã đầy đọa, bóp nát đời Chí GV: Người ta trách anh quá tầm thường đi bán linh hồn để mua lấy vài hào rượu cuối cùng bán sự sống để mua sự sống, bán đời lương thiện để mua đời lương thiện. và vì thế CP đã lương thiện ngay từ ngày ấy Bi kịch đã thực sự kết thúc sau cái chết của Chí Phèo chưa? Em nghĩ gì về chi tiết kết thúc tác phẩm GV chiếu sơ đồ hóa hiện tượng qui luật này Từ bi kịch của Chí Phèo em hãy xác định gía trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm (t/h sâu sắc qua bi kịch tha hóa lưu manh hóa, bi kịch bị sự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo). (t/h trong mối quan hệ của Chí Phèo với bá Kiến và mối quan hệ với thị Nở) Em hãy tổng kết các giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của ăn bản Về nghệ thuật? Về nội dung (Ý nghĩa văn bản)? I II Hình ảnh làng Vũ Đại Nhân vạt Chí Phèo a. b. c.Quá trình thức tỉnh: - hoàn cảnh thức tỉnh: cuộc gặp gõa thị Nở vào 1 đêm trăng say khướt à gặp thị Nở à trận ốmà thức tỉnh * Sau trận ốm: + thấy tỉnh + miệng đắng, long mơ hồ buồn + người bủn rủn, chân tay không buồn nhấc è cảm giác rất thực của con người sau trận ốm à tỉnh rượu + Cảm nhận được cuộc sống xq thật giản dị: tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá à tiếng gọi của sự sống, của cđ lương thiện vang vọng sâu xa trong tâm hồn Chí. + Nhận thức lại mình Quá khứ; ước mơ giản dị: "Chồng cày thuê,.. Hiện tại: Buồn và cô độc Tương lai: tuổi già à đói rét, ốm đau nhưng sợ nhất vẫn là cô độc è Chí nhận ra tình trạng tuyệt vọng của thân phận mình(tự nhận thức, tự thấy sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình) è Nhà văn NC đã đi sâu vào tâm hồn con người để khám phá những biến cố tinh vi một cách chân thực và cảm động. * Tâm trạng Chí khi nhận bát cháo hành của thị Nở - Ngạc nhiên, mắt ươn ướt à vì lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho(cảm động, hạnh phúc) - lòng bâng khuâng à xúc động trước tình người cuả thị Nở, nhen nhóm tình yêu với thị Nở. - Cảm giác ăn năn, hối lỗi - Nhận thấy cháo hành ăn rất ngon à là biểu hiện của tình người giúp CP giải cảm, hồi sinh tâm hồn. + Nhớ lại người đàn bà đầu tiên trong đời + lo lắng cho tương lai à khao khát làm người lương thiện, muốn được làm hòa với mọi người, tin vào thị Nở è Thị Nở chính là cầu nối, là niềm hy vọng, chinh stình yêu mộc mạc chân thành đã thức tỉnh bản chất lương thiện của Chí Phèo è Nhà văn đã phát hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay cả khi họ bị cướp đi bộ mặt người, hồn người. * Khi bị thị Nở cự tuyệt: - Nguyên do: Baø coâ Thò Nôû khoâng cho Thò laáy Chí Pheøo, ñaáy cuõng chính laø ñònh kieán cuûa xaõ hoäi ñoái vôùi Chíà caùnh cöûa trôû laïi laøm ngöôøi löông thieän ñoùng saäp laïià Chí maõi maõi laø con quyû döõ cuûa laøng Vuõ Ñaïi - Tâm trạng, hành động: Hắn bỗng nhiên ngẩn người. Như hít thấy hơi cháo hành Ngẩn mặt, không nói gì Sửng sốt, đứng lên gọi lại Níu tay Thị Nở à khao khát được bấu víu Laïi uoáng röôïu.Haén caøng uoáng caøng tænh Cöù thoaûng thaáy muøi chaùo haønh à bi kịch Cöù oâm maët khoùc röng röùc à tuyệt vọng Giọt nước mắt: + l1: thức tỉnh, cảm động L2: thức tỉnh à tuyệt vọng tột cùng Càng uống càng tỉnhà thức tỉnh lương tri trọn vẹn è Đau đớn, quằn quại khi nhận ra bi kịch của mình (Thöùc tænh à hi voïng à thaát voïng à ñau ñôùn à phaãn uaátà tuyeät voïng (bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người). Nghệ thuật: Miêu tả diến biến tâm lí tinh tế qua nghệ thuật trần thật linh hoạt, đa giọng điệu, * Hành động giết Bá Kiến rồi tự sát Tâm trạng phẫn uất tuyệt vọng à xách dao đi (say rượu nhưng lí trí tỉnh táo à đến nhà Bá Kiến Mục đích: đòi lương thiệnà lời nói dõng dạc " Tao muốn làm người lương thiện Nhận ra bi kịch đau đớn:" Không được ai cho tao lương thiện" à Tiếng kêu cứu tuyệt vọng - Chí Pheøo ñaâm cheát Baù Kieán à Hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh quyền sống Chí Phèo tự sátà Sự cùng đường bế tắc è Sự thức tỉnh toàn diện về mặt nhân cách _ Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo sâu sắc, vừa rung lên tiếng chuông đòi quyền làm người của những con người bất hạnh. * Hình ảnh kết thúc tác phẩm: - Cả làng Vũ Đại nhao lên à Không khí ngột ngạt, đen tối của xã hội nông thôn trước cách mạng với những mâu thuẫn không thể điều hòa - Hinh ảnh Thị Nở nhìn xuống bụng mình thoáng nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không à Nhấn mạnh tính quy luật của hiện tượng Chí Phèo à giá trị tố cáo và thương cảm sâu sắc. 3. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm a. Hiện thực Tác phẩm là bức tranh thu nhỏ về nông thôn Việt Nam trong xã hội cũ, phản ánh chân thực mối quan hệ người bóc lột người không chỉ đẩy người nông dân nghèo lương thiện vào sự bần cùng hoá, lưu manh hoá mà còn đẩy họ vào cái chết. b. Nhân đạo III. Tổng kết 1.Giá trị nghệ thuật - Kết cấu truyện độc đáo, ấn tượng (mở đầu bằng tiếng chửi, cơn say, kết thúc bằng cái chết) - Xây dựng nhân vật điển hình xuất sắc (Bá Kiến - Chí Phèo) bằng lời kể lời tả, lời độc thoại nội tâm, ngôn ngữ biến hoá giàu chất đời sống tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người - Lách sâu vào nỗi đau thân phận của Chí Phèo, miêu tả một cách chân thực và tài hoa tâm trạng tuyệt vọng: ngẩn người, nức kéo, tìm vào rượu nhưng càng uống càng tỉnh, tâm trạng của con người vừa ý thức vừa ra mình ... - Lối viết phục bút, chuẩn bị cho hành động vùng lên giết Bá Kiến - Ngôn ngữ biến hoá, giàu chất đời sống. 2. Nội dung Chí Phèo tố cáo mạnh mẽ, sâu sắc xã hội phong kiến nửa thuộc địa tàn ạo đã cướp đi cả nhân hình, và nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn cũng phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã biến thành quỉ dữ. IV. Luyện tập - Củng cố Câu 1: Cuộc tình Chí Phèo - Thị Nở có ý nghĩa nhất là làm cho Chí Phèo: A. Tỉnh rượu B. Có ước mơ về một gia đình nho nhỏ, hạnh phúc C.Tỉnh ngộ Câu 2: Câu 2: Bà cô Thị Nở là đại diện cho: A. Định kiến của dân làng Vũ Đại, định kiến xã hội B. Người phụ nữ ích kỉ, không muốn nhìn người ta hạnh phúc Câu 3: Khi bị Thị Nở từ chối, Chí "ôm mặt khóc rưng rức", tiếng khóc ấy là biểu hiện của: A. Sự căm phẫn B. Sự tuyệt vọng C. Không thể say được Câu 4: Để được làm người lương thiện, Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát: A. Chí còn có thể có cách lực chọn khác B. Đây là cách giải quyết duy nhất của bi kịch Câu 5: Đặc điểm nghệ thuật không có trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao: A. Sở trường miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật B. Xây dựng nhân vật điển hình C. Tính chất trào phúng, mỉa mai, châm biếm Câu 6: Chí Phèo là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại bởi: A. Tác phẩm đã xây dựng được chuyện tình kì dị lạ thường, một chân dung thắng say rượu có một không hai B. Vạch trần mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn, tình trạng tha hoá của người nông thôn, đồng thời thể hiện lòng tin vào bản chất tốt đẹp của người nông dân - Hướng dẫn tự học + Cảm nhận về nhân vật Bá Kiến +Chiều sâu nhân đạo của Nam Cao qua nhân vật thị Nở + Làm rõ sự độc đáo trong cách mở đầu và kết thức truyện Chí Phèo. Bài tập về nhà C©u 1 Nhµ v¨n NguyÔn Minh Ch©u cã nhËn xÐt vÒ Nam Cao b"ng mét c©u: "C¶ cuéc ®êi chÝnh m×nh vµ c¸c nh©n vËt cña m×nh ®Çy rãng riÕt còng chÝnh lµ s¨n ®uæi c¸i nh©n c¸ch cña con ngêi nãi chung". Em cã suy nghÜ g× vÒ c©u nãi nµy khi häc xong t¸c phÈm §êi thõa vµ ChÝ PhÌo? Câu 2: Nếu phải viết đoạn kết khác cho Chí Phèo em sẽ viết như thế nào?

Thuật Ngữ Bổ Ích Trong Thú Chơi Họa Mi

THUẬT NGỮ BỔ ÍCH TRONG THÚ CHƠI HỌA MI

Lịch sử chơi chim đã có từ rất lâu, đặc biệt là Hoạ Mi. Trong quá trình chơi, dân chơi HM đã tạo ra rất nhiều thuật ngữ, tiếng lóng để chỉ vật dụng nuôi, để nhận định đánh giá trạng thái, chất lượng, khả năng,hình thái… Từng chi tiết từng bộ phận của con Họa Mi.

– Lồng phóng:

Dùng để tập thể lực cho HM chọi nên có kích thước lớn, thường được làm bằng tre, trúc, có đường kính từ 50cm đế n60cm cao từ 1,2m đến 1,5 m.

– Lồng chiến:

Đây là lồng nuôi HM đực để chọi nhau (đá nhau) được làm bằng tre ,trúc, cũng có nhiều kích cỡ, nhưng chủ yếu có đường kính đáy lồng khoảng 36cm, chiều cao tính cả chân lồng khoảng 60cm (chân thường cao 15-16cm). Lồng chiến là lồng được chú trọng nhất, được thửa rất công phu, đặc biệt là sàn lồng và cửa lồng. Trên sàn có bàn chiến.

– Bàn chiến:

Là một bộ phận cùa sàn lồng, tiếp giáp với cửa lồng, có hình bán nguyệt, chỗ rộng nhất khoảng 10-11cm, trên mặt bàn chiến người ta đóng những thanh tre song song để tạo chỗ cho chim tì chân, đuôi để lấy thế chọi nhau, cũng có loại bàn chiến rời, khi chọi mới lắp vào, thường được làm bằng gỗ thông trắng (cùa TQ), khi lắp vào loại bàn chiến này thường có độ dốc khoảng 5 độ, sau cao trước thấp, thay cho những thanh đóng người ta khoét thủng thành những rãnh.

– Cầu đậu:

Tôi chỉ nói qua về cầu gạo thôi, Thực ra nó không phải là cành gạo như ta tưởng, tiếng Tày Nùng gọi cây này là: Kiều nộc có nghỉa là cầu chim. thuộc họ thân gỗ, chiều cao trung bình khoảng 3m, thường thấy mọc tại các khu vực đất cằn ven đồi (đất càng cằn cỗi càng có hy vọng tìm được cầu đẹp) có tán lá rất giống cây Hoa hoè, rất dễ nhận từ xa. Các cụ cho rằng chim đậu cầu này có tác dụng luyện da chân chim dày dạn, ít bệnh tật….

Ngoài hai loại lồng trên cón có lồng mái, lồng mồi.

– Lồng mái: thường có đường kính đáy khoảng 35cm,cao khoảng 40cm,dùng để nhốt mái HM nhằm thúc my đực chọi.

– Lồng mồi: có kích thước nhỏ nhất nhưng được làm chắc chắn, nan, vanh đều to, trước khi dùng thường đươc hun khói và bôi nhựa lá cây (sát lá rừng vào nan lồng nhiều lần) làm cho lồng có mùi và màu giống tự nhiên. Đây là lồng đựng chim mồi để bẫy chim rừng, có đường kính đáy khoảng 25cm, cao khoảng 30cm.

Trước đây các Cụ còn có lồng LƯU ĐIỂU to hơn lồng mái một chút (lồng mái có 48 nan, lồng lưu điểu 52 nan, lồng chiến 56 nan, lồng phóng từ 64 nan trở lên) đường kính đáy lồng khoàng 37cm cao 40cm, dùng để xách chim đi chơi (đi dượt) bây giờ thấy ít người dùng.

Lại tiếp tục tự biên tự diễn đây.

– Lồng Vác: Đây là từ chỉ các loại lồng do những người ở làng Vác, xã Nhân hoà, huyện Thanh oai, Hà tây (nay là HN) sản xuất, mới đầu nó chỉ mang tính chất nông phẩm phụ, khi xong việc đồng áng, nhưng hiện nay nhiều nhà ở đây đã bán hoặc cho thuê ruộng, bỏ hẳn việc làm ruộng để chuyên tâm làm lồng. lồng Vác đã có mặt hầu khắp các tỉnh Bắc bộ và đã có chỗ đứng trong giới chơi chim, do giá cả hợp lý và hình thức ngày một mỹ thuật, thiếu sót của lồng Vác là những người làm lồng đều không chơi chim nên lồng thiếu tính thực dụng, không sáng tạo và nghiêm trọng nhất là tính giả dối về chất lượng còn khá phổ biến.

– Lồng Thổ:

Đây là từ chỉ những chiếc lồng do những người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Miền núi phía bắc chế tác,chủ yếu là lồng MY, ngoài ra cũng có một số ít lồng gáy và đa đa. Do chỉ được làm khi có nhu cầu sử dụng của bản thân, nên số lượng rất ít. Quy trình chế tác, vật liệu, kích cỡ, hình dáng…rất đa dạng. Đồ nghề nhiều khi rất đơn giản, chỉ có con dao và cái dùi sắt nung lửa để dùi lỗ vanh, vì vậy phần lớn trông cục mịch, thô , nhưng rất thật, rất hữu dụng và đầy ắp tính văn hoá bán địa. Hiện nay cũng đã xuất hiện một vài nơi (Vân an, Chiến thắng…ở LS) bà con dân tộc ít người cũng đã bắt đầu sản xuất lồng trong thời gian nông nhàn, đem ra chợ phiên tại TP LS để bán, những chiếc lồng này đã bị thương phẩm hoá nên tính văn hoá và chất lượng đã giảm nhiều.

– Cóng (coóng):

Là vật dụng dùng để dựng thức ăn và nước cho chim, trước đây thường được làm bằng sứ và được trang trí hết sức cầu kỳ, các họa tiết nhỏ li ti đều được vẽ bằng tay, hình dáng cũng rất đa dạng (hiện nay cũng có 1-2 cửa hàng ở HN bán bán loại này). Bây giờ người ta “cải lùi” làm nó bằng nhựa, thủy tinh tuy xấu nhưng rất rẻ.

– Trung sa (khung chọi):

Khi chọi chim người ta áp hai cửa lồng vào nhau, để chim chọi nhau qua những song cửa , nhưng vì cửa lồng của mỗi người khác nhau, song cửa cũng to nhỏ không đều nên thường gây ra những vấn đề không thống nhất vì vậy người ta nghĩ ra cái TRUNG SA. (TRUNG=ở giữa, SA=là cái mành hay cái chấn song cửa sổ). Trung sa thường được làm bằng gỗ, có chiều rộng mép trong khoảng 8,5cm, chiều cao khoảng 40cm, có hai thanh chấn song tre (có đk khoảng 0,5cm) ngăn trung sa ra làm 3 khoảng cách bằng nhau (khoảng 2,6cm) chim có thể thò đầu sang để chọi nhau, nhưng không thể chui hẳn sang (thông lồng), chọi qua trung sa xem hơi tức mắt (vì vướng nhiều thứ) nhưng giữ được chim chơi lâu dài.

– Chọi Hội: Trước đây nhân các ngày hội dân gian ở miền núi như Hội lồng tồng, Hội đầu pháo… và các Tiết âm lịch, các Cụ thường tụ tập dăm mười người đem chim ra chọi chơi rồi cùng nhau ăn uống, khen chê v.v chủ yếu để vui và tập dượt nên mới gọi là chọi hội. Còn bây giờ do nhu cầu của người chơi và do thông tin đã phát triển nên người ta có thể tổ chức chọi hội bất cứ ngày nào nếu thấy cần thiết.

Chọi hội thường được một Tổ chức nào đó đứng ra bao thầu (thường là Hội SVC của nơi sở tại diễn ra chọi hội). Quy mô cũng rất đa dạng, có thể chỉ diễn ra trong 1 xã, 1 huyện, nhưng cũng có thể cả tỉnh và liên tỉnh, số lượng có thể lên đến 70-80 đôi chim. Người tham gia chỉ việc mang chim đến địa điểm quy định, đăng ký và nộp Tiền đầu lồng (khoảng 100 nghìn-200 nghìn/con). Quy tắc chọi hội là CHỌI VÒNG TRÒN, LOẠI TRỰC TIẾP, con chọi thắng cứ tiếp tục chọi cho tới lúc thua hoặc chủ chim cảm thấy chim của mình đã đủ điểm nhận giải hoặc đơn thuần là để giữ chim thì có thể xin thôi chọi.

Cách tính điểm là bằng phút, mỗi phút người ta quy định là 100 điểm để tiện cho việc cộng dồn vì nhiều con chọi chưa đến 1 phút đã thua, con thắng sẽ được cộng dồn số lẻ này. Cơ cấu giải gồm :1,2,3 và Điện quân, kèm theo cờ và chút tiền thưởng gọi là có (thường kinh phí thưởng bằng kinh phí giải Ba).

Ý nghĩa của chọi hội vẫn như xưa (để lựa chọn chim tài, chim hay). Nhưng bên trong còn có những giao kèo CHỌI TAY ĐÔI của những cao thủ lồng ghép vào, nên không khí chọi hội bây giờ cũng căng không kém gì, và sau khi mãn cuộc thường là những cuộc ngã giá – một cơ hội tốt cho những người chuyên gột chim chọi.

– Chọi đôi: Đây là hình thức chọi giữa 2 con chim của hai chủ chim với nhau (không phụ thuộc Ban bệ nào cả) nó được hình thành trên cơ sở lời mời đầy tính thách thức. Có thể nói CHỌI TAY ĐÔI là SỨC SỐNG TINH THẦN, là ĐỘNG CƠ CHÍNH để nghề chơi chim HM liên tục phát triển rộng rãi và sâu.

Mỗi một cuộc chọi tay đôi diễn ra là một cuộc đấu trí, một cuộc trải nghiệm tay nghề và danh dự không những của một con người mà còn là cả một môn phái, một địa danh nào đó nên thường được cân nhắc tính toán rất kĩ, chim phải bảo đảm ở giai đoạn căng lửa nhất vì vậy các trận tay đôi thường rất ác chiến, xem rất đã mắt. Không khí trận mạc lại được hâm nóng thêm bởi những khoản cá cược đi kèm, có trận lên đến vài chục tr…bởi thế nên đã dính vào nghề này rồi là khó cai lắm.

Để đảm bảo công bằng địa điểm chọi thường được chọn ở nơi trung gian cho cả hai phía để không ai lợi sân nhà cả, nên thường phải mang chim đi xa có khi hàng 100km, vất vả khó khăn là thế nhưng nó luôn là ước mơ của bất cứ ai “không may” nghiện nó.

Cũng có những cuộc chọi tay đôi “ăn liền”, như gặp nhau tại chọi hội, gặp nhau khi đi dợt.. nhưng thường chóng vánh và thiệt hại chiến tranh không đáng kể.

– Bám lồng: Khi con HM đã đủ lửa, chỉ cần nghe thoáng xa có tiếng con khác, nó lập tức nhảy lên bám vào nan và vanh lồng, thò cả mỏ ra ngoài, ngó nghiêng cảnh giác và không ngừng hót sổng rất đanh, có con còn mổ sàn, mổ cửa lồng trông rất hung dữ.

– Bám Cửa: Khi chọi nhau hai con thường nhảy sát về phía cửa lồng để tiếp cận đối phương, có con bám sát trung sa chọi tới lúc phân chia thắng bại gọi là đánh bám cửa, có con đứng xa cửa ***g chọn thời cơ mà đánh thì gọi là đánh khôn hoặc đánh xa.

– BẬT BUNG: chim chưa đủ lửa mà đã đem đánh, không dám xuống cầu, cứ đậu trên cầu đuôi hất lên hất xuống liên tục gọi là Bật bung.

– XUỐNG CẦU: khi chọi nhau hai con chim đang đậu trên cầu lồng mình, vừa nhìn thấy chim đối phương là nhảy ngay xuống cửa lồng nghênh chiến động tác này gọi là xuống cầu.

– THÔNG LỒNG: Khi chọi chim HM nhiều trường hợp phân định thắng thua không rõ ràng vì người ta quy định nếu con A xuống cầu 3 lần (xuống cầu đợi đánh không tháy đối phương tiếp cận lại nhảy lên, rồi lại nhảy xuống đợi 3 lần mà con kia vẫn không xuống) thì con A sẽ được xử thắng. Nhưng có trường hợp con A xuống càu 2 lần vừa nhảy lên cầu thì con B lại xuống cầu, khi con A nhảy xuống thì con B lại nhảy lên cầu như vạy là phải đếm lại từ đầu, nếu không chịu xử hoà thì người ta bắt buộc phải bỏ trung sa cho đánh thông lồng hai con lao vao ***g của nhau đánh cho tới lúc một con thua hẳn. Cũng có trường hợp chim nhỏ nhưng căng nên khi chọi, lách luôn qua trung sa đánh đối phương ở sân đối phương luôn và thường thắng. Còn ở bên Tàu thì chỉ chọi thông lồng chứ không có kiều chọi qua trung sa như ta.

– KHÓA: Khi chọi nhau HM dùng chân túm chặt lấy đối phương, đè lên hoặc kéo đối phương về vể phía mình vừa gây thương tích cho đối phương lại vừa hạn chế những cú đánh của đối phương đồng thời tạo ra thời cơ tốt nhất để đánh trả đối hương một cách chính xác – động tác này gọi là Khóa. Miếng khóa càng trở nên nguy hiểm khi chọi qua trung sa vì hai chấn song trung sa sẽ tạo ra điểm tỳ khiến cho con bị khóa rất khó thoát ra được,chỉ còn cách giơ đầu mà chịu đòn, nhiều con HM rất hay nhưng lại thua chỉ vì miếng khóa.

– ĐÒN LAO: Đây là miếng đánh thường thấy ở những con HM có tướng “Ngũ đoản”, đang đậu trên cầu, trọng tài chỉ vừa mở trung sa, thoáng thấy đối phương là lao vút như mũi tên thẳng vào cửa chiến nghe phập một cái, đòn này nguy hiểm cho cả hai vì nếu đánh trúng đối phương thì sẽ bị cú phủ đầu rất mạnh, dễ giật mình mà choáng còn nếu đối phương tránh được thì con lao sẽ đập hai bên mặt rất mạnh vào chấn song trung sa, rất dễ toét mặt (Vì vậy nếu bạn có con ngũ đoản thì mỗi lần áp thử bạn nhớ phải cho chúng thấy nhau từ xa).

– CHÓOC: Đây là tiếng kêu đặc trưng của HM (cả đực và cái) ở thời kỳ thiếu lửa, nếu để gần những con căng lửa thì tiếng kêu này càng nhiều và liên tục hơn (tiếng kêu tựa như: chóc chóc,chóc chóc ). HM đá mà có tiếng kêu này thì rất ít khi chịu đá (cũng có trường hợp ngoại lệ).

– XÙ ĐẦU: HM đá cũng có hiện tượng kỵ dơ/rơ nhau, có con đánh thắng nhiều con khác nhưng lại không dám đánh một con nào đấy, hễ cứ nhìn thấy là lông đầu dựng lên, cổ rụt lại, kêu chóc chóc liên tục, hiện tượng này gọi là xù đầu, hiện tượng xù đầu còn thường thấy ở chim mộc, chim non khi áp gần lồng chim thuộc, hoặc chim con nuôi lên khi chủ nhân đến gần chúng cũng dựng lông đàu lên chờ chù vuốt ve.

– GỌI LÊN: Khi chim đã bắt đầu có lửa hoặc chim căng lửa, chủ chim bặm môi rồi bật ra những âm thanh tựa như gà mẹ gọi gà con vậy, lập tức chim HM sẽ nhún lên nhún xuống miệng chim cũng phát ra những âm thanh tương tự sau đó là kềm theo vài tiếng hót nghe rất thách thức, hiện tượng này được gọi là GỌI LÊN.

– BÚNG CÁNH: HM thuộc hoặc dở khi áp lồng con đực vào sát con mái, cả hai con sẽ dương cánh lên, hai cánh rung, vẫy liên tục, nhanh, miệng đồng thời phát ra âm chéc, chéc. Quan sát chim lúc này thấy thần thái khác hẳn, phần lớn trông chim đẹp hẳn lên. HM đực trước khi lao vào nhau đấu đá cũng có động tác búng cánh nhưng chỉ thoáng qua. My bổi già rừng đang có lửa cũng có con búng cánh khi thấy mái.

– CHÙY, TE: Đây là từ để chỉ tiếng kêu của chim HM mái, người ta làm ra một loại còi để thổi bắt chước tiêng mái kêu, chiếc còi này cũng được gọi là cỏi chùy.

– HỘ ĐỰC: Khi chọi chim, người ta thường để hai con mái cạnh hai con đực, trong lúc con đực đánh nhau thì con mái cũng nhảy lên nhảy xuống miệng không ngừng phát ra những âm thúc giục, có con mái hăng còn chùy liên tục khiến con đực đá quên chết, động thái trên gọi là hộ đực.

– MI THUỘC: đây là chim HM đã đuợc nuôi trong lồng ít nhất 12 tháng, đã 2 lần thay lông trong lồng, tính cách, hình thể đã hoàn toàn ổn định (to, nhỏ, ngắn dài, chọi,hót, hoạt, định, đã rõ ràng) đã quen người,hoàn cảnh nuôi dốt, môi trường thành thị và có thể điều khiển cho hót theo ý chủ. (tất nhiên là chủ nuôi phải đúng phương pháp).

– MI CON NUÔI LÊN: đây là loại chim HM được bắt từ trong ổ, người nuôi phải đút mớm cho chim ăn hàng ngày như một một bà mẹ chim (có lẽ chim hm con cũng nghĩ như vậy). Cho tới lúc chúng tự biết ăn (khoảng 20 ngày) chúng cũng có những đặc tính như my thuộc, nhưng vì do người nuôi trong môi trường khác hẳn tự nhiên nên giọng hót có nhiều âm tạp và đặc biệt là tỷ lệ chùy mái khá cao (chim đực nhưng trước khi hót lại chùy vài tiếng rồi mới hót giọng đực). Ở ngoài bắc ít người nuôi nhưng trong nam thì nhiều người thích nuôi đặc biệt là các bác người Hoa và nuôi cực giỏi luôn.

– CHIM MỘC DỞ: đây là loại chim đã được nuôi trong lồng từ 3 tháng đến dưới 1 năm (đã một lần thay lông trong lồng hoặc chưa lần nào) đã tương đối quen người nhưng tính cách hình thái chư ổn định.

-CHIM MỘC(BỖI): Đây là chim mới bẫy được, còn dốt trong hộc nhỏ, đã biết ăn cám, gạo, nhưng còn rất nhát, khi mua về thả ra lồng to nếu không có phương pháp chúng sẽ sợ nhảy thúc vỡ cả mặt mũi và không giám hót. (chim rất hay mất móng trong thời kỳ này) tuy vậy nó vẫn được người chơi mua nhiều nhất vì một phần do giá rẻ một phần người nuôi cũng muốn thông qua việc nuôi dạy mà thu được kinh nghiêm, giết được thời gian nhàn rỗi, con chim sẽ có những phản xạ do mình áp đặt và cái cảm giác “CON CHIM CỦA TÔI” mới rõ ràng,tạo cho người chơi hưng phấn..

– CHIM GIÀ RỪNG (TQ gọi là LÃO MAO ĐIỂU hoặc QUÁ CHI TỬ): Đây là chim HM đã sống ít nhất 1,5 năm trong tự nhiên, đã 2 lần thay lông trở lên, bản năng hoang dã đã rõ ràng, đã có cứ địa, đã sinh con đẻ cái. Nhát người khó thuần nhưng ít bệnh tật, hót hay và hay chọi, những người chơi chim có kinh nghiệm luôn săn tìm mua loại này.

– CHIM NON (TỀ MAO ĐIỂU): Đây là chim đã sống trong tự nhiên từ 7 tháng tới 1 năm tuổi, đã thay lông 1 lần, tính hoang dã đã hình thành khá rõ, đã có cứ địa, nhưng chưa sinh đẻ lần nào, mẫu mã rất bắt mắt, chậm hót, nhưng tương đối dẽ thuần, ít khi thành chim chọi.

– CHIM TƠ (NGUYÊN MAO ĐIỂU): đây là chim mới có tuổi đởi tự nhiên từ 1 đến 5 tháng tuổi,mới rời tổ, vẫn sống theo đàn, đã tự kiếm ăn nhưng vẫn cần bố mẹ cho ăn và bảo vệ, chưa có lãnh địa, chưa thay lông. Dễ thuần, mau hót và cũng siêng hót,nhiều con dám đấu hót với cả chim thuộc. Rất khó trở thành chim chọi.

– CHIM CON(OA SỒ ĐIỂU): Đây là chim mới nở còn nằm trong tổ, chưa biết tự ăn, người nuôi phải đút cho ăn (thường là dưới 10 ngày tuổi) hay mắc bệnh (quăn lông, vẹo chân, lệch mỏ…) cần chăm sóc chu đáo, nhưng rất bạo, thuần và nếu biết cách có thể dạy được nhiều trò,hay hót .

– ỐP MÁI: Khi nuôi chim chọi người ta thường nuôi kèm 1 chim mái để kích thích chim đực nhằm duy trì bản năng bảo vệ mái (một trong những động cơ chính khiến HM chọi nhau). Bình thường người ta cách ly đực và cái chỉ có thể nghe tiếng mà không nhìn thấy nhau, cứ vài hôm mới cho chim cái và đực nhìn thấy nhau bằng cách để hai lồng sát nhau, vạch rộng áo lồng khoảng 1-2 tiếng cho chúng quấn quýt nhau cho tới khi cảm thấy chúng đã trở lại bình thường người ta lại tách chúng ra,như thế gọi là ốp mái.

– CÔNG,Ủ: Khi nuôi chim chọi, mỗi người có một nghệ thuật riêng,có người cứ nuôi với một loại thức ăn đều đều khi cần là cứ thế chọi ngay (thực tế cũng nhiều người đánh giải theo kiểu này) nhưng phần lớn là khi sắp chọi một thời gian (khoảng 7-10 ngày) người ta cho ăn một loại thức ăn khác ngày thường với những công thức rất ít khi được tiết lộ làm cho chim hăng hẳn lên, kết hợp với việc phủ áo lồng,ốp mái đúng cách nhàm làm cho chim đạt điểm rơi tối đa, như vậy ta gọi là công chim.

– HÃM: Những người chơi theo lối công thì sau khi chọi xong, người ta lại chuyển chim sang chế độ ăn bình thường nhằm làm cho chim bớt sung dể giữ chim chơi dài dài, lúc này thường người ta cho ốp mái liên tục và thường xuyên mở rộng áo lồng,tắm nhiều…

– LÒI CẢO (hở gối): Phần đông lông đùi HM phủ kín đầu gối, nhưng có một số ít (khoảng 2-3%) đầu gối bị hở, không có lông che phủ, người ta gọi loại HM này là Lòi cảo. Phần lớn thuộc cỡ trung bình hoặc nhỏ, không trường không đoản, cẳng chân cao, móng dài. Loại này không dát bằng loại phương đầu nhưng có cái tật là nhảy nhiều nhưng biết tránh nên không vỡ đầu, gãy đuôi, nuôi 2 năm lồng nhưng hễ thấy gì khác biệt là cứ nhảy xoành xoạch trông rối cả mắt, nhưng được cái hay là hót nhiều và rất đanh. Không chọi nhưng cũng không xù đầu bao giờ.

– PHÁ VỸ (Sát mỷ): Ai mua phải con này thì thật là đen đủi vì thường giống này hót rất nhiều,cũng có con chọi nhưng không thể giữ nổi cái đuôi kể cả thay lông tự nhiên hoặc bạn nhổ lông gãy thúc mọc lông mới thì chỉ vừa nhú ra được một phần là lập tức lại bị gãy cụt, nguyên nhân là do nó không biết cách nhảy nên cứ mỗi lần nhảy lên bám vào nan lồng đuôi của nó cứ thò ra ngoài cọ vào nan làm đuôi cong như dấu hỏi ,được vài bữa là gãy sạch.

– HOA ĐẦU: Phía trên đỉnh đầu kéo dài hết gáy có những vân đen chạy dọc một cách rõ nét, to,lông đầu sáng trông loang lổ nổi bật giữ những vân đen thì gọi là Hoa đầu, thường to con, đẹp mã, hót nhiều, khi thuộc rồi thấy ngưòi hay búng cánh,chọi phập phù.

– VẢNG TÍNH (lộn cổ): lúc đậu trên cầu hoặc bám tren nan ***g thỉnh thoảng cứ ngửa cổ ra dằng sau thì gọi là vảng tính.

– CHỈ MỲ: Giữa phần lông my trắng bao quanh mắt (thường là my trên) có một đốm lông đen nhỏ như hạt vừng thì gọi là chỉ mỳ, có con bị một bên có con bị cả hai bên, theo kinh nghiệm thì giống này có lúc chọi rất hăng nhưng lại có khi không xuống cầu. Hót nhiều,thường rơi vào chim ngũ trường.

-HÓT SỢ (Khiếp khẩu):

Có thể nhiều người chưa nghe thấy và chưa biết Hót sợ là gì,trước khi vào giải nghĩa tôi xin nói rộng ra một chút-Người TQ phân tiếng hót HM ra làm 4 loại,đó là:

Khiếp khẩu (hót sợ)

Tiều bàn (hót Chuyện nhỏ )

Trung bàn (hót chuyện to ).

Đại khiếu (hót sổng)

Mấy thứ Hót chuyện và hót sổng mọi người biết cả rồi,bây giờ tôi xin giải nghỉa hót sợ.Có 2 kiểu hót sợ:

Khi mới bẫy được,bị bắt,bị nhốt trong hộp nhỏ, bị các âm thanh và hình ảnh của con người đe dọa liên tục, hoặc bị những con HM thuộc lấn át ,nhiều con họa my mộc không dám hót hoặc chỉ hót rất nhỏ, ngắn, nghe yếu ớt, vụng trộm kiểu hót này gọi là hót sợ.

Khi bị hết nước, hết thức ăn trong tình trạng nguy kịch (hết nước khoảng 6 giờ,hết thức ăn khoảng 10 giờ) Chim sẽ hót cách quãng liên tục,5-10 phút lại hót lặp lại 1 giai điệu trước, tiếng hót yếu, chậm, nghe ai oán, buồn, cũng được gọi là hót sợ (trong trường hợp hết thức ăn bạn chỉ việc cho thức ăn vào là xong,nhưng nếu là hết nước thì bạn phải hết sức cẩn trọng – nếu chim vẫn khỏe vẫn nhẩy nhót bình thường thì củng chỉ đổ nước vào là được ,nhưng nếu chim đã suy kiệt, không nhẩy lên bám cầu được,hoặc vẫn bám trên cầu nhưng không còn phản xạ nhanh nhạy thì bạn chỉ được phếp đổ vài giọt nước vào cóng,đợi chim uống hết mấy giọt này đợi 10 phút sau lại đổ vào vài giọt,sau 3 lần cho uống như vậy bạn dừng lại không đổ tiếp nữa,trong thời gian này bạn phải để chim ở cạnh bếp lửa hoặc dùng sì đầu sì chung quanh để giữ ấm cho chim ,nhớ không sì trực tiếp vào thân chúng tôi 30 phút nếu thấy chim tươi tỉnh lúc này bạn lại cho uống một chút nước,nhưng vẫn hạn chế không cho uống no,khi nào thấy chim nhảy nhót bình thường lúc đó mới đổ đầy nước vào cóng) nếu trong trường hợp chim yếu quá không tự uống được thì bạn lấy thìa mà bón từng giọt nhưng không được cầm chim trong tay chim sẽ đạp giãy và chết ngay và nhớ cũng phải bón cách quãng và sưởi ấm như trên.

-NGŨ TRƯỜNG, NGŨ ĐOẢN (5 dài,5 ngắn): Đây là cụm từ người TQ dùng để phân biệt giữa 2 loại thể hình của chin HM,người TQ căn cứ vào các bộ phận sâu để phân loại:

MY (Lông my)

BỘT TỬ(Cổ)

THÂN ĐIỀU(Thân)

THOÁI(Đùi và cẳng).

Nếu 5 thứ trên mà đều dài thì gọi là Ngũ trường,nếu tất cả ngắn thì gọi là Ngũ Đoản.

Nếu không thuộc bộ nào thì không cân đối.

Ảnh :

Tìm Hiểu Những Điều Thú Vị Về Chim Vành Khuyên

Phân loại và thức ăn

Một loài chim nhỏ phân bố nhiều ở khu vực Đông Nam Á. Chúng được phân loại dựa trên màu sắc của lông. Hiện nay có 2 loại chim khuyên đó là khuyên xanh và khuyên vàng.

Chim Khuyên có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại. Sở dĩ mọi người gọi là chim khuyên bởi vì xung quanh mắt chúng có vành đai.

Chim khuyên sống ở nhiều môi trường khác nhau và chúng rất mạnh dạn. Vì vậy chúng ta có thể thấy chúng sinh sống và kiếm ăn nhiều ở môi trường xung quanh con người.

Chim khuyên ăn gì – thức ăn của những con chim khuyên khá đa dạng. Chúng có thể ăn rau, những loại hạt nhỏ, sâu bọ, hút mật,……Thậm chí người ta còn xem chúng như một loài chim rất có ích cho nhà nông vì chúng ăn sâu bọ trên hoa màu, giúp cho hoa màu ít bị làm hại.

Đặc điểm của chim vành khuyên.

Chim vành khuyên thích sống ở môi trường sống ồn ào nhộn nhịp. Nơi có nhiều cây cao vì vậy chúng ta có thể bắt gặp chúng ở rất nhiều nơi. Nhiều nhất là khu vực Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và cả Trung Bộ.

Nếu so sánh kích thước với nhiều loài chim khác thì loài vành khuyên được xem là loài chim có kích thước nhỏ bé, thon gọn và rất nhanh nhẹn.

Giọng hót của vành khuyên không lanh lảnh như họa mi mà rất nhẹ nhàng và dễ nghe. Thậm chí chúng còn có khả năng bắt chước giọng hót của một số loài chim khác. Đây cũng chính là lý do mà nhiều người chơi chim cảnh rất thích loài chim này.

Có một điểm rất đặc biệt mà có thể rất ít người biết đó là chúng còn rất thích hút mật của loài hoa trạng nguyên. Vì vậy nếu như ở nơi nào có nhiều hoa trạng nguyên thì mọi người sẽ thấy ở đó sẽ tập trung rất nhiều chim vành khuyên.

Một số tập tính của chim khuyên.

Nếu như một số loài chim thích cuộc sống đơn độc thì vành khuyên lại sống thành bầy đàn, thậm chí có những đàn có số lượng rất đông. Vì vậy mà sẽ không hiếm khi chúng ta bắt gặp một đàn vành khuyên cùng nhau bay vút lên trời sau khi chúng kiếm ăn.

Tuy nhiên khi đến giai đoạn sinh sản, chúng sẽ tách đàn và tìm kiếm bạn tình để giao phối và sinh sản.

Vào mùa sinh sản tầm tháng 3-7 hàng năm. Cũng giống như nhiều loài chim khác, chim trống sẽ dùng tiếng hót của mình để thu hút bạn tình.

Sau khi đã thu hút được bạn tình chim vành khuyên sẽ bắt đầu giao phối và cùng nhau làm tổ. Chúng thường làm tổ trên những cây cao và có nhiều tán lá để bảo vệ chim non.

Vào mỗi mùa sinh sản chim thường đẻ 2-3 trứng và trứng có màu xanh lam nhạt. Vành khuyên trống được xem là một ông bố có trách nhiệm vì chúng thường xuyên giúp chim cái ấp trứng và chăm sóc chim con.

Chim con khi mới nở sẽ được bố mẹ chăm sóc cho đến khi chúng đủ lông, đủ cánh và hoàn thiện kỹ năng bay sẽ tách khỏi bố mẹ để tự lập.

Bạn đang xem bài viết Từ Ngữ Thú Vị (11 trên website Topcareplaza.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!