Xem Nhiều 3/2023 #️ Truyện: Tiếng Hót Chim Sơn Ca # Top 12 Trend | Topcareplaza.com

Xem Nhiều 3/2023 # Truyện: Tiếng Hót Chim Sơn Ca # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Truyện: Tiếng Hót Chim Sơn Ca mới nhất trên website Topcareplaza.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Ở Trung Quốc, nơi mà Hoàng đế là một người Trung Quốc và tất cả quần thần cũng là người Trung Quốc, các bạn hẳn cũng biết điều đó, đã có một câu chuyện.

Câu chuyện này xảy ra lâu lắm rồi, nhưng chính vì thế mà phải kể lại để người ta khỏi quên đi. Cung điện của Hoàng đế đẹp nhất trần gian, làm bằng một loại sứ rất quý, nhưng dễ vỡ, mỗi khi chạm đến phải thật nhẹ tay, nhẹ chân. Trong vườn Thượng uyển trồng toàn những loại hoa quý, rất kỳ lạ, những bông hoa đẹp nhất phải đeo lục lạc bằng bạc để cho du khách khi đến xem phải lưu ý. Khu vườn được chăm sóc kỳ công và trải rộng, ngay người làm vườn cũng không biết đến đâu là hết. Càng đi càng gặp nhiều điều kỳ thú, những cây cao bóng cả vươn dài, những hồ rộng mênh mông sâu thẳm. Rừng thoai thoải xuống biển, trên làn nước xanh những con thuyền lớn có thể lướt dưới bóng cây. Nơi đây có con hoạ mi thường cất tiếng hót mê hồn. Một anh thuyền chài nghèo khổ lòng chứa chất bao nỗi lo toan dăng lưới đi qua, nghe tiếng chim hót cũng phải dừng lại nghe. Anh reo lên: “Trời ơi, Thánh thót biết bao”. Nhưng rồi mải mê với công việc, anh ta quên chim ngay. Đêm sau đi dăng lưới qua đấy, anh lại nghe tiếng chim hót: anh lại đứng lại nghe và lại reo lên: “Trời ơi, Thánh thót biết bao”. Khách tham quan từ nhiều nước trên thế giới kéo đến hoàng thành. Họ ca ngợi hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng khi nghe hoạ mi hót, họ đồng thanh reo lên: “Đấy mới là điều kỳ diệu”.

Trở về quê hương, họ thuật lại những điều mắt thấy tai nghe. Nhiều học giả đã viết thành sách ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng người ta ca tụng hoạ mi nhiều hơn cả, những thi sĩ nổi tiếng đã làm những bài thơ kiệt tác để ca ngợi con chim hoạ mi hót hay trong khu rừng bên bờ biển. Sách được truyền đi khắp nơi, có quyển lọt vào tay Hoàng đế. Người chăm chú đọc, nhiều lúc gật đầu tán thưởng những đoạn văn hay ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển.

Đọc tiếp, người thấy có đoạn viết: “Nhưng con chim hoạ mi mới thật là kỳ diệu!” Hoàng đế ngạc nhiên:

– Gì thế này? Con chim hoạ mi à? Sao ta lại không biết nhỉ? Có đúng là trong giang sơn ta; hơn nữa lại ngay trong vườn của ta, lại có một con chim như thế không? Ta chưa hề nghe nói bao giờ, lạ thật! Hoàng đế truyền gọi quan thị lang là người cầm quyền cao chức trọng; mỗi khi có kẻ dưới đến trình báo hay thỉnh cầu điều gì, ngài chỉ trả lời cộc lốc: “Hớ!” Hoàng đế phán hỏi:

– Ở đây chừng như có một con chim người ta gọi là hoạ mi. Thiên hạ cho rằng con chim này là loại chim quý hiếm. Vậy sao chưa thấy ai tâu với Trẫm?” Quan thị lang thưa: – Muôn tâu bệ hạ, chính hạ thần cũng chưa nghe thấy nói bao giờ và cũng chưa thấy ai đem đến tiến cử. – Vậy ngay tối nay phải đem nó đến hót cho Trẫm nghe. Thiên hạ biết đến vật báu của Trẫm mà riêng Trẫm lại không biết! Quan Thị Lang tâu: – Muôn tâu bệ hạ, thực tình hạ thần chưa hề thấy con chim ấy, nhưng hạ thần xin đi tìm nhất định sẽ tìm được. Nhưng tìm đâu? Quan Thị Lang đã leo lên khắp lầu son gác tía, qua khắp các cung điện và đường lối đi lại, gặp ai cũng hỏi, nhưng chẳng ai biết gì về chim hoạ mi cả. Quan Thị Lang lại vào chầu hoàng đế: – Tâu thánh thượng – Ngài nói – Có lẽ sách đã đánh lừa độc giả, xin bệ hạ đừng tin, đây chỉ là chuyện hoang đường. Hoàng đế phán: – Những sách ta xem là những sách của Hoàng đế Nhật Bản gửi tặng, lẽ nào lại là chuyện bịa đặt? Trẫm muốn được nghe chim hoạ mi hót ngay tối nay. Trẫm sẽ ban thưởng cho chim nhiều ân huệ. Nếu không đưa được hoạ mi đến thì cả triều đình sẽ bị phạt giẫm lên bụng sau khi ăn cơm no. Quan Thị lang cúi chào Hoàng thượng ra về. Rồi ngài chạy tới chạy lui, leo lên leo xuống, khắp cả lầu son gác tía, vào khắp các phòng trong hoàng cung, sục sạo mọi ngõ ngách, một nửa triều thần cũng làm như thế, vì chẳng ai muốn chịu tội giẫm lên bụng. Rõ là một cuộc chạy đua loạn xạ để tìm một con chim cả thiên hạ biết tiếng chỉ trừ Hoàng đế và đình thần. Cuối cùng họ vớ được một cô bé thị tì. – Trời ơi! – Cô bé kêu lên – Con chim hoạ mi! Cháu biết! Nó hót hay lắm! Chiều nào mang cơm thừa cho mẹ đang ốm, lúc về mỏi chân đứng nghỉ trong rừng, cháu cũng được nghe nó hót. Những lúc ấy cháu thấy sung sướng đến chảy nước mắt như khi được mẹ cháu ôm hôn vậy. Quan Thị lang nói như reo: – Cháu bé ngoan lắm! Cháu hãy đưa ta đến chỗ hoạ mi đậu, ta sẽ ban cho cháu một chức vị ở trong nhà bếp và cho phép cháu được vào xem Hoàng đế ngự thiện. Cháu cần đi ngay vì tối nay đã phải đem chim đến hót cho Hoàng đế nghe. Cả một nửa triều đình theo con bé thị tì vào rừng nơi có hoạ mi hót. Dọc đường bỗng nghe tiếng bò rống, một thị đồng reo lên: Hoạ mi đấy! Chim gì mà lớn tiếng thế! Hình như tôi đã được nghe ở đâu rồi! Nữ tì nói: – Không phải đâu! Bò rống đấy! Còn phải đi lâu mới tới! Lúc sau lại có tiếng ì uôm của một con ễnh ương ở trong ao. Pháp tăng trong triều cũng đi theo đoàn reo lên: – Hoạ mi đấy! Nghe sao mà thánh thót thế! Chưa bao giờ bần tăng được nghe một giọng chim hót hay như thế! Nữ tì nói: – Không phải đâu! Đấy là ễnh ương! Đi thêm một quãng, thị tì bảo mọi người: – Hãy im lặng mà nghe! Nó đấy! Hoạ mi đấy – Thị tì nói và chỉ một con chim nhỏ lông xám đang đậu trên một cành cây. Quang Thị lang ngạc nhiên: – Hoạ mi đấy à? Ta cứ tưởng nó đẹp kia chứ? Bộ lông nó trông tầm thường quá! Hay là trước mặt đông đủ quần thần nó sợ, tái sắc đi? Thị tì cất tiếng gọi: – Hoạ mi ơi! Hoàng đế muốn nghe hoạ mi hót đấy. – Rất vui lòng! – Hoạ mi trả lời. Và cất tiếng hót thánh thót mê hồn. Quan thị lang khen: – Nghe trong như những tiếng nhạc bằng pha lê. Cái cổ họng nó xinh xắn cứ phập phồng. Thế mà chưa bao giờ được nghe hoạ mi hót cũng tiếc thật. Vào hoàng cung chắc nó sẽ được triều đình và hoàng gia nhiệt liệt hoan nghênh. Tưởng hoàng đế có mặt ở đấy, hoạ mi hỏi: – Tôi có phải hót lần nữa cho thánh thượng nghe không? Quan thị lang nói: – Hoạ mi ơi! Người hãy theo chúng ta về cung hót cho Hoàng đế mê say. – Giọng hót của tôi ở chốn rừng này, dưới vòm cây này, mới là hay nhất. Hoạ mi nói thế, nhưng khi biết Hoàng đế muốn nó đến hót tại hoàng cung, nó cũng vui lòng đi theo. Ở hoàng cung người ta đã chuẩn bị tiếp thật long trọng. Hàng ngàn cây đèn bằng vàng sáng chói trên sân rồng và trên các bệ bằng sứ. Hàng hiên rực rỡ những chậu hoa hiếm thấy, chuông bạc ngân vang mỗi khi gió thoảng nhẹ. Chính giữa đại diện, nơi Hoàng đế ngự có để sẵn một cành cây bằng vàng cho chim đến đậu. Văn võ bá quan tề tựu đông đủ; cả cô thị tì mới được phong chức đầu bếp, cũng được phép đến nấp nghe sau cánh cửa. Các quan đều mặc phẩm phục, chăm chú chiêm ngưỡng con chim màu xám đang líu lo trên cành vàng. Hoạ mi hót hay đến nỗi Hoàng đế xúc động, sụt sùi, nước mắt giàn giụa. Người rất hài lòng, truyền đeo chiếc thẻ bà bằng vàng vào cổ chim để thưởng công. Nhưng hoạ mi khước từ nói: – Như thế này là vinh dự cho tôi lắm rồi! Được thấy những giọt nước mắt của Hoàng đế nhỏ khi nghe tôi hót là một ân huệ lớn đối với tôi. Hoạ mi lại cất tiếng hót êm đềm thấm thía như để tạ ơn. Các bà phu nhân thì thào với nhau: – Không còn gì tuyệt bằng. Có bà còn ngậm tí nước vào miệng, khẽ lấy giọng ro ro trong cổ bắt chước tiếng chim. Trong bụng nghĩ cứ làm như thế giọng các bà sẽ biến thành giọng hoạ mi. Ngay cả các nữ tì, thị vị, những người khách khó tính nhất cũng nhiệt liệt ca ngợi giọng hót của hoạ mi. Như vậy hoạ mi được cả triều đình và hoàng gia ca ngợi. Hoàng đế truyền ban cho hoạ mi một chiếc lồng sơn son treo trong cung, chim được phép ra ngoài mỗi ngày hai lần mỗi đêm một lần. Mỗi khi ra ngoài chim được mười hai quan hầu đi theo, mỗi người nâng một sợi tơ buộc vào chân chim. Kiểu du ngoạn như vậy, hoạ mi chẳng thích thú gì. Cả kinh thành náo nức về con chim. Ai đẻ con cũng muốn đặt tên là hoạ mi, kể cả những đứa có giọng khàn khàn. Một hôm Hoàng đế nhận được một gói gửi đến bên ngài đề hai chữ “Hoạ mi”. Hoàng đế mở gói, bụng nghĩ chắc lại là một quyển sách nói về chim Hoạ mi. Nhưng không phải. Trong gói lại là một con hoạ mi nhân tạo, giống hệt con hoạ mi thật, mình, dát đầy kim cương, ngọc xanh ngọc đỏ. Hễ vặn máy chim lại hót lên như hoạ mi thật, cái đuôi vẫy vẫy óng ánh sợi vàng sợi bạc. Cổ chim hoạ mi đeo một cái vòng, trên khắc dòng chữ: “Tôi là hoạ mi của Hoàng đế Nhật Bản, tôi chưa sánh được với Hoạ mi của hoàng đế Trung Hoa”. Cả triều đình reo lên: – Tuyệt quá! Hoàng đế phong cho người mang hoạ mi giả một chức vị cao và ban thưởng. Triều thần có người bàn cho hai con chim cùng hót, để được nghe một bản song ca của hai con chim hoạ mi tuyệt diệu. Người ta đã thử nhưng không được, vì con chim hoạ mi thật hót một kiểu riêng của nó, còn hoạ mi giả cứ hót theo nhịp ba. Quan chưởng nhạc đã biện hộ cho hoạ mi máy nói rằng nó hót không sai đâu, rất đúng nhịp, tôi cũng thường dạy trên lớp như thế. Nghe quan chưởng nhạc nói vậy, người ta bèn cho chim giả hót một mình. Nó hót rất hay, chẳng kém gì chim thật, lại đẹp nữa, lúc nó hót cứ lóng lánh như nạm kim cương. Nó có thể hót thông luôn một lúc ba mươi lần mà vẫn hay, người nghe không thấy chán, vẫn cứ muốn nghe nữa. Nhưng Hoàng đế truyền để chim thật hót một lúc. Nhưng nhìn trước nhìn sau chẳng thấy chim thật. Thì ra trong lúc mọi người mải mê nghe chim giả hót thì chim thật đã bay về chốn rừng xanh. Hoàng đế sửng sốt: – Thế là thế nào? Quần thần tỏ vẻ tức giận, kết tội chim vong ân bội nghĩa. Cũng có người an ủi như vậy còn là may vì còn giữ được con hay nhất. Thế là chim giả lại phải hót, có một bài mà nó cứ hót đi hót lại đến mấy chục lần. Quan chưởng nhạc hết lời ca tụng chim máy, quan quả quyết nó hơn hẳn chim thật, không chỉ vì nó có bộ lông đẹp mà chính vì tài nghệ của nó. – Muôn tâu bệ hạ – quan chưởng nhạc trình lên Hoàng đế – với con chim thật, chẳng ai biết được nó sẽ hót bài gì; nhưng với con chim máy thì các bài hót được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cứ mở máy các bài sẽ lần lượt hót lên. Cứ việc tháo máy ra, xem các bánh xe sắp đặt thế nào thì hiểu được cách chuyển động của máy và cách phát ra tiếng hót. Mọi người tán thành ý kiến của quan chưởng nhạc. Hoàng đế phán rằng phải để dân chúng được nghe chim máy hót, nên chủ nhật quan Chưởng nhạc đem chim máy cho dân chúng nghe. Dân chúng được nghe hoạ mi hót, ai cũng tấm tắc khen, sau mỗi bài mọi người lại chỉ tay lên trời, lắc đầu kêu “ồ”! Nhưng có một anh thuyền chài nghèo, đã nhiều lần được nghe hoạ mi hót, lại nói như thế này. – Khá hay đấy! Khá giống hoạ mi thật đấy! Nhưng nghe như còn thiếu một cái gì ấy. Vậy là chim thật đã ra khỏi hoàng cung; chim máy được đưa lên địa vị độc tôn. Người ta đặt nó trên một đệm gấm, bên cạnh giường ngự, xung quanh xếp đầy những bội tinh, châu báu, vàng ngọc là những thứ chim được ban thưởng. Nó được hoàng đế phong cho chức tước cao quý. Về ngôi thứ lâm triều, chim được xếp hàng đầu, bên trái, là thứ bậc cao nhất triều đình. Quang chưởng nhạc viết một pho sách mười lăm chương ca tụng chim hoạ mi máy, lời lẽ uyên bác, cao siêu. Ai đọc bộ sách ấy cũng gật gù tỏ ra thông hiểu, để khỏi mang tiếng dốt nát. Sau một năm, Hoàng đế ,triều thần, và cả nước đều thuộc lòng những bài do chim máy hót. Người ta có thể đồng ca với chim. Từ Hoàng đế đến chú bé ngoài phố cũng biết hót. Rõ thật là hay! Nhưng một hôm, chim máy đang hót cho Hoàng đế nghe thì bỗng có tiêng kêu đánh sạch trong bụng chim. Dường như có cái gì bị gẫy, các bánh xe quay loạn xạ nghe xoàn xoạt, rồi chim ngừng hót. Hoàng đế truyền gọi quan ngự y đến bắt mạch chữa cho chim. Nhưng quan ngự y từ chối vì không thuộc chuyên môn của người. Triều đình phải cho gọi một thợ chữa đồng hồ đến. Anh thợ đồng hồ tháo tung cỗ máy xem xét nói rằng các bánh xe mòn nhiều, không có đồ thay; chỉ có thể lắp lại dùng tạm, mỗi năm chỉ được cho chim hót một lần. Nghe tin thần dân cả nước bàng hoàng. Tiếng chim máy hót bây giờ nghe rèn rẹt, nhưng quan chưởng nhạc vẫn khăng khăng rằng tiếng chim máy hót vẫn du dương như trước. Năm năm sau, nhân dân trong nước nghe một tin dữ. Hoàng đế muôn vàn kính yêu của họ lâm bệnh nặng, không cứu chữa được. Đình thần đã chọn người kế vị. Dân chúng nhớn nhác đến dinh quan thị lang hỏi thăm tin tức. Hoàng đế tái ngắt, giá lạnh trong long sàng. Văn võ bá quan tưởng người đã băng hà rối rít, xun xoe quanh vị vua mới. Tróng khi đó thị vị và nữ tì vui chơi, thoả thích chuyện gẫu và uống nước chè. Hoàng đế đáng thương đang hấp hối, người chỉ còn thoi thóp thở. Cảm thấy có vật gì đè lên ngực, người mở mắt và nhìn thấy thần chết đang cười với người. Thần chết đã lột mũ miện của người, một tay cầm xạ kích một tay cầm hoàng kỳ. Từ các nếp màn che quanh long sàng ló ra những cái đầu lâu kỳ quái; có những cái trông gớm ghiếc, lại có những cái trông nhân từ. Đó là công đức và tội lỗi của Hoàng đế hiện về trong khi thần chết đè nặng lên trái tim người. – Còn nhớ không? Nhà vua còn nhớ không? Cái đầu lâu lần lượt hỏi tội nhà vua. Chúng kể ra không biết bao nhiêu là tội, khiến nhà vua toát hết cả mồ hôi và kêu lên: – Nhưng ta đâu có biết những chuyện ấy? Rồi ngài hô: – Cử nhạc lên! Khua trống cái lên! Ta không muốn nghe những lời ma quái nữa! Mặt ma vẫn cứ trơ trơ, còn thần chết thì vẫn lắc lư cái đầu. Hoàng đế lại thét lên: – Cử nhạc! Cử nhạc mau! Chim vàng thân yêu! Hãy hót đi! Hót lên! Ta sẽ ban thưởng cho người vàng bạc, châu báu và chiếc bài vàng. Hót lên! Hót lên đi! Nhưng chẳng có ai vặn máy, nên chim cứ im lìm. Còn thần chết thì vẫn giương đôi mắt thao láo, trống hốc, nhìn chằm chằm Hoàng đế. Giữa lúc đó, từ ngoài cửa sổ nổi lên tiếng hót tuyệt vời. Chim hoạ mi bé nhỏ đã từ rừng xanh bay về đậu trên cành cây ngoài vườn. Nghe tin Hoàng đế ốm nặng, chim đã bay về mang lại cho người nguồn sinh lực bằng tiếng hót của mình. Tiếng hót của hoạ mi vang lên, bóng ma tan dần, máu lại lưu thông trong huyết quản của nhà vua. Thần chết cũng phải lặng đi trước tiếng hót của hoạ mi, rồi lại khuyến khích: – Cứ hót đi! Hoạ mi! Cứ hót đi! – Được! nhưng phải trao lại kiếm vàng và mũ miện cho Hoàng đế! Sau mỗi bài hót của chim, thần chết lại trao trả một bảo vật. Chim tiếp tục hót, ca ngợi cảnh thanh bình nơi nghĩa trang đầy hoa thơm, cỏ lạ. Thần chết không cầm nỗi lòng mong muốn trở lại khu vườn của mình, đã hoá thành một đám mấy trắng bay qua cửa sổ và biến mất. Hoàng đế reo lên: – Cảm ơn chim! Cảm ơn chim yêu quí! Ta đã nhận ra hoạ mi rồi. Ta đã vô tình để chim ra khỏi hoàng cung, vậy mà chim vẫn quay về, lại giúp ta xua đuổi tà ma, cứu ta ra khỏi tay thần chết. Ơn ấy không bao giờ ta quên. Hoạ mi đáp: – Nhà vua ban thưởng cho chim nhiều rồi. Những giọt nước mắt, nhà vua nhỏ lần đầu tiên nghe chim hót, chim không bao giờ quên cảnh tượng ấy. Đối với một ca sĩ, không có vàng bạc châu báu nào quý giá bằng. Bây giờ xin Hoàng đế yên nghỉ để hoạ mi hót cho người nghe cho mau bình phục. Rồi hoạ mi lại hót, hoàng đế lại thiếp đi trong giấc ngủ hồi sinh êm đềm. Lúc ánh bình minh chiếu qua cửa sổ rọi tới long sàng, nhà vua tỉnh giấc trong người sảng khoái vô cùng. Chung quanh chẳng có ai đến hầu, vì họ yên trí vô nhà vua đã băng hà. Duy chỉ có hoạ mi vẫn một mình líu lo bên cạnh Hoàng đế. Hoàng đế bảo chim: – Từ nay hoa mi luôn ở bên ta để hót cho ta nghe, còn con chi giả ta sẽ đập tan thành trăm mảnh. Hoạ mi vội can: – Xin nhà vua đừng làm như vậy. Chim máy đã làm hết sức của nó, nên giữ nó lại. Còn tôi, tôi không quen sống trong hoàng cung. Xin nhà vua cho phép tôi về rừng, chiều chiều tôi sẽ bay lại đây, đậu trên cành cây, trước cửa sổ này để hót cho nhà vua nghe. Chim sẽ hót lên cuộc đời của những kẻ sung sướng nhưng cuộc đời cũng như cuộc đời của những người đau khổ. Chim sẽ hót lên những điều tốt cũng như những điều xấu người ta chung quanh nhà vua. Tiếng hót của hoạ mi bé nhỏ này sẽ lọt tới những người dân chài nghèo khổ, của những nông dân bần hàn, đến tận những nơi xa hoàng đế và triều đình. Hoạ mi kính trọng tấm lòng nhà vua hơn cả ngai vàng, mặc dầu ngai vàng là biểu hiện thiêng liêng. Chim sẽ đến, sẽ hót, nhưng chỉ xin nhà vua một điều: – Chim muốn xin gì trẫm cũng ban – nhà vua nói và đứng dậy ghi chặt thanh kiếm nạm ngọc quí vào ngực. – Chim chỉ xin bệ hạ một điều là đừng nói cho bất cứ ai biết rằng bệ hạ có một con chim nhỏ đã tâu lên cho bệ hạ biết tất cả mọi điều. Như thế mọi việc sẽ êm đẹp. Nói rồi chim cất cánh bay đi. Lúc ấy triều thần bước vào. Họ yên trí hoàng đế đã băng hà. Nhưng mọi người sửng sốt thấy nhà vua đứng dậy quay về phía họ mà phán rằng: – Chào các ngươi!

Giọng Hót Chim Sơn Ca – Truyện Kể Thiếu Nhi

cNgày xửa, ngày xưa, ở một khu rừng nọ có rất nhiều loài chim. Mỗi loài có một giọng hát khác nhau. Duy chỉ có Sơn Ca có giọng hót hay hơn cả. Mỗi khi Sơn Ca hót, cỏ, cây, hoa lá rì rào hoà theo. Dòng suối đang chảy róc rách cũng như muốn dừng lại để thưởng thức giọng hót mê li ấy. Một hôm chim Sẻ được các bạn cử đến gặp Sơn Ca. Chim Sẻ hỏi Sơn Ca : – Bạn Sơn Ca ơi, có phải bác Mặt Trời cho bạn giọng hát mê li ấy không ? – Không phải đâu. Bác Mặt Trời tốt bụng chỉ cho tôi những tia nắng vàng rực rỡ, ấm áp thôi. – Thế có phải cô Mây Hồng đã cho bạn giọng hót hay không ? – Cũng không phải đâu bạn Sẻ ạ. Cô Mây Hồng xinh đẹp chỉ cho tôi những tảng bông êm dịu thôi. – Ôi Sơn Ca đáng yêu : Thế ai đã cho bạn giọng hót hay ? Chim Sẻ và cả bầy chim không hiểu tại sao mà Sơn Ca có giọng hót tuyệt vời đến thế. Các bạn quyết định đến trường hỏi cô giáo Hoạ Mi. Nghe các học trò của mình hỏi, cô giáo Hoạ Mi cười rất vui. Cô nói : – Cô và các cháu cùng nhau tìm hiểu điều đó. Sáng mai cô sẽ đợi các cháu, ta cùng đến nhà bạn Sơn Ca. Nhưng các cháu phải nhớ dậy sớm đấy. Sáng hôm sau, khi đến nhà Sơn Ca, các bạn thấy Sơn Ca vừa chuyền cành vừa hót say sưa. Thỉnh thoảng Sơn Ca vừa nghiêng đầu lắng nghe tiếng cây cối xào xạc, tiếng suối chảy róc rách. Nghe rất kĩ, rất lâu những âm thanh ấy rồi Sơn Ca mới bắt chước theo. Các bạn chim lúc ấy mới chợt hiểu vì sao Sơn Ca có giọng hót hay đến thế. Cả đàng chim ríu rít cất tiếng hoà với giọng hót của Sơn Ca. Rừng cây rộn ràng tiếng hót của bầy chim non chào mừng ngày mới.

THU THỦY sưu tầm

4.7

/

5

(

9

bình chọn

)

Truyện Tiếng Hót Vành Khuyên

Tối thứ bẩy, đi văn nghệ Chu văn An về, Mai thao thức, trằn trọc mãi. Tới gần sáng, mệt quá, mới thiếp đi trong một giấc ngủ đầy mộng mị. Cũng tại cái bài Trường Làng Tôi, đầy dẫy hình ảnh, gợi lại trong lòng Mai biết bao nhiêu là kỷ niệm…

Mai không biết có phải tại mình sanh dưới chân ông Huỳnh Đế, hay kiếp trước vốn dòng du mục, mà với cái thời gian ngắn ngủi có sáu năm tiểu học, Mai thay tới năm trường khác nhau. Trong thập niên 50, tình hình dưới quê rất lộn xộn Quận Cao Lãnh nằm dọc theo con sông Hậu Giạng Ban ngày, quân đội Phật Giáo Hoà Hảo làm chủ tình hịnh Đêm Việt minh từ trong đồng về quấy rối. Thỉnh thoảng, lính Cộng hoà từ tỉnh kéo xuống bố rạp Dân chúng lúc nào cũng phập phòng lo sợ và luôn luôn trong tư thế sằn sạng nhảy xuống hầm núp!

Ba làm việc trên Saigon. Má, chị Lan và Mai vẫn ở dưới quê với ông bà nội. Năm ba tháng má dắt chị em Mai lên Saigòn thăm ba. Sẵn dịp đem gạo, gà vịt, cá mắm, trái cây lên tiếp tệ Cao Lãnh – Saigòn chỉ cách độ 140 cây số, nhưng phải đi tàu đò xuống Sađéc, rồi ngủ lại một đêm (thường là ngủ trên mui tàu), hôm sau mới lấy xe đò đi Saigọn Mai còn nhớ những chiếc xe đò cọc cạch, khách ngồi chật như nêm, trên mui chở cả trăm thứ Thỉnh thoảng phải ngừng lại đổ nước cho nguội máy! Còn phải qua bắc Mỹ Thuận mới là gian nan (nhưng bù lại, trong khi chờ đợi, được ăn một dĩa cơm có con tôm càng kho tàu, chan nước mắm mỡ hành, có trộn gạch tôm đỏ tươi, cũng đáng lắm!)… Ở chơi với ba độ một tuần, mấy mẹ con lại cụ bị trở về quê. Ngoài những thứ cần cho ông bà nội, cái món không thể thiếu được, là những ổ bánh mì dòn rụm mua tại bến xe. Lần nào mà cũng mua 2, 3 chục ổ về biếu bà con lối xóm.

Một buổi sáng đẹp trời, má đánh thức Mai dậy rất sớm.

Bắt con nhỏ tắm rửa sạch sẽ, mặc cái áo đầm sọc câro hồng, trắng. Đầu cài chiếc nơ trắng có chấm hộng Chân mang đôi săng đan trắng. Tay ôm hai cuốn vở và một cây viết chị Má dắt Mai xuống đò qua sông, tới trường thầy bảy Tánh xin cho Mai học lớp chót. Thời chiến nên trường cất cũng dã chiến luôn! Chung quanh là những cây cao rợp bóng mát. Suốt ngày tiếng chim hót véo von. Phía sau trường là một rừng cây đủng đỉnh. Nhà nào có đám tiệc cũng tới chặt lá về che rạp Bông đủng đỉnh màu vàng tươi, kết thành chùm, để trang trí ngoài cửa rạp cho thêm phần mỹ thuật Trường chỉ có một căn duy nhất.

Chiều ngang độ mười thước, sâu năm sáu thước, ngăn đôi bởi một tấm phên tre, có chừa lối đi. Thầy Tánh kiêm nhiệm hai lớp nên chạy qua chạy lại như mắc cửi.

Phần lớn học trò nhà quê ăn mặc khá lam lũ. Tuy còn nhỏ xíu nhưng Mai cảm thấy mình hổng giống con giáp nào trong chiếc áo đầm, nên mấy ngày sau nhứt định xin má cho mặc áo quần bà ba như những đứa trẻ khác. Mỗi ngày má đưa Mai ra tới bến đò, đứng đợi Mai qua tới bờ bên kia má mới về. Tan học Mai về một mình. Má không lo, vì ông lái đò chính là ” ba nuôi” của Mai. Má kể lúc hơn một tuổi, con nhỏ cứ bịnh rề rề, nhiều khi làm kinh, giựt sùi bọt mép khiến cả nhà hết hộn Cô hai Bạch chị của ba, khuyên nên đem Mai ” ký bán” cho một người nào đó làm con nuôi. Trong làng có hai nhân vật khá lạ lùng, đó là bác Huế Nhiên và chú Huế Kiện Tuy chẳng có giây mơ rể má gì tới cái xứ Thần kinh xa lơ xa lắc đó (bác Nhiên người gốc Bình Định và chú Kiên người gộc Bắc kỳ!), nhưng thời đó, trong Nam, nếu không phải là người Nam, thì đương sự chính là người Huế!

Hai ông Huế giả hiệu này, không biết trôi lạc xuống làng Tân An từ bao giờ (quên hỏi má), nhưng tứ cố vô thân, nghèo xơ nghèo xạc Sau này, khá lớn tuổi, chú Kiên cưới được cô Mành, vì cô này lật lợ. Phần bác Nhiên được đẹp duyên với cô Chương, lý do đơn giản là trai làng không ai dám đến gần. Cũng bởi xuân thu nhị kỳ, mỗi năm cô tắm nhiều nhứt là hai lần!

Vậy mà khi lấy chồng cô đẻ sòn sòn năm một. Sản xuất một lèo tới sáu, bảy đứa. Má kể có lần tới thăm bác gái mới sanh, vừa vén mí mùng lên là má tượng xỉu cái đùng, vì cái sự ” nặng mùi” từ trong mùng xông ra! Cả xóm lăn ra cười cái lần bác bị bà chị ruột lôi sềnh sệch xuống sông bắt tắm. Bác vừa ” bị” tắm, vừa khóc, vừa nỉ non:

– Bắt tui tắm rủi tui bịnh ai chịu tiền thuốc đây?

Bà chị vừa kỳ cọ cho bác, vừa la ầm ĩ:

– Mày bịnh tao chịu tiền thuốc. Đàn bà con gái gì mà còn hôi hơn chồn! Tao cũng khá khen cho thằng chồng mày còn ở với mày cho tới ngày nay!

Vậy mà lũ con bác lớn như thổi, mạnh cùi cụi quanh năm.

Vì vậy ba má đem Mai ký bán cho bác làm con nuôi. Chỉ khổ thân con nhỏ, mỗi lần gặp ông già nuôi đều bị Ổng ôm ” hun” một phát lên má! Ai qua đò cũng phải trả mấy cắc, riêng Mai thì miễn phí (con nuôi cũng có khác!). Đó là chưa kể những hôm phát tài, bố cao hứng móc túi cho Mai năm cắc mua mía ghịm Về nhà bị má la, vì bác nghèo, con đông, không nên nhận tiền của bác tội nghiệp!

Kỷ niệm không thể quên được trong thời gian học lớp chót này là cái chết tức tưởi của thằng Đượng Nó mới bằng tuổi Mai. Một hôm đang ngồi học, cu cậu ôm bụng kêu đau. Thầy Tánh cho nó vệ Qua hôm sau không thấy nó đi học lại. Đến ngày thứ ba, thầy nói nó vẫn còn đau nhiều lặm Trị thuốc bắc hoài không hết, gia đình phải đem nó xuống bịnh viện Cao Lãnh điều trị Nhưng hai ngày sau thằng Đường chệt Lúc đó mọi người mới biết nó bị sưng ruột dư. Khi chở xuống bịnh viện đã bể tùm lum, không cứu kịp!…. Thầy Tánh dẫn cả hai lớp đi đưa đám ma. Thấy má nó lăn lộn khóc, Mai cũng thút thít khóc theo!….

Qua năm sau, lên lớp năm, Mai khỏi phải qua đò, vì chú hai Thuận (em chú bác của ba) mở một ngôi trường cách nhà Mai độ hai trăm thược Kêu ngôi trường cho nó oai, chớ thật ra nó còn có phần tệ hơn ” ngôi trường” năm ngoái, vì chỉ trần sì có một lớp! Trường được cất trên nền đất, xung quanh là vườn cam, quít, bưởi… Sát vách có cây mận hồng đào, trái đỏ tươi, thường xuyên thu hút ” nhỡn quan” của đám học trò ham chơi hơn ham học Chú Thuận vừa là thầy giáo, vừa là thầy thuốc. Đúng ra lúc còn trẻ, chú bị gia đình bắt ép phải khăn gói quả mướp ra tận xứ Huế tầm sư học đạo. Chú được thọ giáo với một danh sư đất thần kinh (lần nầy đúng là người… Huế trăm phần trăm). Tuy giỏi về nghề thuốc vô cùng, nhưng chú chỉ thích làm thầy giáo. Cuối cùng chú đành hanhsọng nghệ, trong sự sung sướng của đám học trọ Trường cách nhà có một cái sân độ mươi thước. Mỗi lần có khách đến nhà xin khám bệnh, chú giao lớp cho thằng Nam, (vì nó nhiều tuổi và lớn con nhứt lớp), nhưng lại hiền khô, chẳng ma nào sợ, nên lần nào lớp học cũng ồn như cái chợ Có đứa còn chạy qua đứng trước cửa nhà thầy, khoanh tay cúi đầu rất nghiêm chỉnh:

– Thưa thầy cho em đi… đắi!) Thầy đang tập trung hết tâm trí để bắt mạch cho bệnh nhân, nên phải gật đầu. Mười lần hết chín, nhóc ta chạy ù ra vườn, nhảy tót lên cây mận, hay cây trứng cá, hái đầy nhóc một túi… Chú Thuận trị học trò bằng roi mây. Nhưng hình phạt thần sầu nhứt của chú là nắm mớ tóc mai kéo lên. Kéo tới đâu là nạn nhân nhắm mắt, nhắm mũi cố rướn người theo tới đó. Chừng rướn hết nổi thì chỉ còn nước oà lên khóc!….

Đến giữa năm học, có một chuyện động trời xảy ra làm rúng động cả mái trường (may phước được lợp bằng lá!) bé nhỏ này. Hôm đó trời nắng thật đẹp, không khí trong suốt như pha lê, lại mát mẻ dịu dàng nhờ đám mưa tối hôm trước. Trong vườn chim chóc ríu rít chuyền cành. Trong lớp, đám học trò nhỏ đang để hết tâm trí vào bài toán độ Chợt có tiếng chim véo von từ ngoài đưa vào. Tiếng hót rất lạ, không giống bất cứ tiếng chim nào hằng ngày Mai vẫn nghe. Mấy chục cặp mắt đồng loạt hướng về phía cây mận sát vách (vách bằng lá chằm, còn chừa phía trên độ hơn thước mới tới nóc). Lủng lẳng trên nhánh mận là một chiếc lồng chim, bên trong có một chú đang nhảy nhót lung tung, thỉnh thoảng ngừng lại vươn cổ lên hót một tràng. Chú chim rất đẹp, đẹp hơn tất cả những con mà Mai đã được thấy, với bộ lông màu xanh lá cây, chiếc mỏ màu vàng và hình như giữa hai mắt có một khoanh tròn màu trặng Chú Thuận nhíu mày hỏi:

– Lồng chim của đứa nào?

Thằng Tín – con chú – đứng lên khoanh tay:

– Dạ của con.

Chú ngạc nhiên:

– Ủa, ở đâu mày có? Mà giống chim gì coi lạ quá vậy?

Thằng Tín hơi ngập ngừng:

– Dạ của chú Huế Kiên cho con. Chú nói con chim này tên Vành khuyên (nó phát âm Dành khuyên).

Chú Thuận nhíu mày như đang suy nghĩ một điều gì, rồi như chợt nhớ ra, chú cao giọng:

– Có lý nào chú Huế Kiên cho mày. Loại chim này đâu có ở đây mà chú bắt được?

Thằng Tín cặp mắt chớp lia, ấp a ấp úng:

– Dạ, con không biệt Chú Thuận từ từ tiến tới trước mặt ông con, mặt đằng đằng sát khí:

– Có phải mày đã ăn cắp năm đồng của má mày để mua con chim này không? nói mau. Hôm kia má mày kêu mất năm đồng.

Thằng Tín lắp bắp:

– Dạ không phải con.

Nói chưa dứt câu đã bị lãnh hai cái tát nẩy lửa. Cu cậu hồn bất phụ thể đành khai thiệt:

Số là cách đây hơn tháng, chú Huế Kiên được ông Tám Sang mướn chèo ghe, chở lúa lên Saigòn bán cho mấy chành gạo. Trong lúc rảnh rỗi, chú theo mấy người bạn lái ghe đi thăm Saigòn, Chợ lớn cho biết. Tới khu chợ bán đủ loại chim, cá, chó, mèo… thấy có bán con chim Vành Khuyên, có lẽ chạnh lòng nhớ về xứ Bắc xa xôi, chú đứt ruột trích ra một món tiền, mua chú chim đem về, chắc mong hằng ngày ngắm nhìn cho đỡ nhớ quê xưa. Không ngờ gặp nhóc tì Tín là người đồng điệu. Tuy mới tám chín tuổi đầu, nhưng cu cậu rất mê chim chóc. Nó đã từng nuôi một con sáo (từ lúc mới ra ràng), bỏ công hằng ngày bắt cào cào, châu chấu cho ặn Sau đó còn lột lưỡi và dạy sáo ta nói được vài câu. Nhưng một hôm bất cẩn, anh chàng bỏ mạng dưới nanh vuốt của mấy con mèo hoang bên nhà bà Sáu Tân (sát hàng rào!). Cu Tín tiếc thương con sáo khóc hết mấy ngày. Từ hôm biết chú Huế Kiên có con chim lạ, vừa đẹp lại hót hay, hầu như ngày nào nó cũng ra nhà chú, ngoài lộ mới, để chơi với con chịm Cách đây hai hôm, con Lanh, con chú Kiên bị trúng gió (?), trên thổ hạ tả, chú kẹt tiền mua thuốc cho con, nên muốn bán rẻ, vừa chim vừa lồng có năm động Cu Tín mừng rơn, nhưng đào đâu ra tiền?

Suy nghĩ nát óc, sau cùng mê con chim quá, cu cậu đành nhắm mắt ” mượn đại” tiền của bà via. Hy vọng bả không khám phá ra. (Ai bảo trai gái khi thương nhau mới mù quáng? Hỉ mũi chưa sạch như thằng Tín, khi mê chim cũng dám uống thuốc liều chớ bộ!). Sau khi tặng ông con hai cái tát gần gẫy cổ, chú Thuận quay ra cho cái đám học trò, đang ngẩn tò te, một bài mô ran:

lợi dụng lúc nhà người ta đang ” tang gia bối rối” để mua đồ rẻ như thằng Tín là gian ác! Thay vì ăn cắp tiền đi mua con chim, nó có thể xin chú thuốc đem cho con Lanh nhưng Mai có nghe gì đâu. Vì tuy sóng gió đang ầm ầm xảy ra trong lớp học, ngoài kia, chú Vành khuyên vẫn thản nhiên nhảy nhót và cất tiếng hót véo vọn Sau khi tan học, chú Thuận dẫn thằng Tín, cầm lồng chim tới nhà chú Huế Kiên trả lại, năm đồng cho luôn. Chú Kiên mừng lắm, cám ơn rối rít! Cũng từ đó, tiếng hót và chú chim màu xanh có cái tên Vành khuyên đã thấm sâu vào tâm hồn non nớt của cô nhỏ. Nhớ hoài…

Rồi năm học sau, Mai không nhớ vì lý do gì (thuở đó, ăn, học, đánh chuyền, nhảy lò cò, tắm sông, cất nhà chòi… chiếm hết thì giờ và tâm trí của Mai, còn chỗ nào để nhớ đến chuyện khác?), chú Thuận dẹp ngôi trường nhỏ và chú Sáu Lân, cũng em họ của ba, tốt nghiệp trường ” Xách Lu” (tức Chasseloup Laubat, các bà dưới quê phát âm nôm na là Xách lu cho tiện!), trên Saigòn về, xin phép ty học chánh dưới Cao Lãnh mở một ngôi trường tiểu học (chỉ có ba lớp).

Trường được cất trên nền cũ của ngôi nhà nền đúc xưa (bị tiêu thổ khang chiến phá từ lâu), vách ván bổ kho, mái tôn đàng hoạng Tuy mái tôn nhưng không nóng, nhờ núp dưới bóng mát của hai cây vú sữa tím cổ thụ Ngoài Hiệu trưởng Lân còn có hai cô giáo. Cô Bích độc thân, từ tỉnh khác đổi tới, nên cô phải mướn một căn phòng, ăn ở luôn tại nhà bà Sáu Tận Cô xinh xắn, hiền dạy lớp năm. Lớp tư do cô Liễu phụ trách. Cô Liễu có gia đình, năm đó đang mang bầu đứa con thứ nhì. Mỗi sáng cô phải đi bảy cây số, từ Cao Lãnh lên Tân An dạy. Học trò đứa nào cũng mê tơi mùi nước hoa từ người cô toa? ra. Chú Lân dạy lớp ba. Chú đánh học trò còn dữ hơn chú Thuận Chú không xài roi mây mà xài thước bảng! Làng Tân An nằm cạnh con sông Cửu Long, đất bồi nên cây trái sum suệ Nhiều nhất là xoài và dừa. Ít người làm ruộng Trái lại xã Mỹ Ngãi nằm sâu trong đất liền, cách Tân An một cánh đồng khá rộng Đa số làm nghề nộng Đến mùa gặt, cần nhiều nhân công, nên con cái họ đi học thất thượng Nhiều đứa trụ trì một lớp hai, ba năm là chuyện tự nhiên. Trong lớp Mai có năm đứa bên Mỹ Ngãi qua học. Tội nghiệp, phải đi bộ ba, bốn cây số mới tới trường, nên tụi nhỏ phải gói cơm đem theo ăn trưa tại lớp. Chiều, tan học lại phải băng qua cánh đồng rộng mênh mông mới về tới nhạ Còn sức đâu để học bài, nên đứa nào cũng học rất kẹm Nhứt là thằng Đức. Nó hơn Mai hai tuổi, mà tháng nào cũng bị cầm cờ đứng chọt Mỗi khi bị thầy kêu đọc bài thuộc lòng là mặt mày nó xanh dợn Có hôm làm toán sai be bét, bị chú Lân phạt năm khẹ Mỗi lần cây thước bảng quất cái trót xuống bàn tay đen đủi của thằng Đức là Mai lại giật thót người. Nó nghiến răng chịu trận không dám khóc, nhưng cặp môi xám nghoẹt! Có một lần chú oái oăm bắt Mai thi hành bản án, vì Mai được nhiều điểm nhứt lợp Mai là người từ bi, chớ đâu có gian ác như chú Lân, nên chỉ khẻ nó một cái nhẹ hều. Chú giật cây thước, bắt Mai xoè bàn tay bé bỏng ra, rồi quất xuống một cái mạnh ơi là mạnh. Đau thấu trời xanh! Đâu có chịu tha, chú bắt Mai tiếp tục thi hành bản án. Lần này, con nhỏ lấy hết sức quật cho anh cu Đức năm cái.

Hôm sau, Mai đem cho nó trái xoài thanh ca chín vàng lườm, thơm phức:

– Trò đừng giận tui nha. Tui đâu muốn đánh, tại thầy bắt.

Thằng Đức nhận trái xoài, ra vẻ cảm động:

– Tui hổng giận trò đâu. Cũng tại tui học dở thôi! Mà Mai à, trò làm cách nào mà học giỏi quá vậy? Tháng nào cũng đứng nhứt.

Con nhỏ nghệt mặt ra, rồi cười trừ, vì biết phải giải thích cách nào đây? Chú Lân còn độc thân lại đẹp trai. Cô Bích xinh xắn, dễ thương, thì chuyện gì đền tất phải đện Hai người thương nhau. Nhưng Mai nghe mấy người lớn nói gia đình cô Bích không môn đăng hộ đối (Mai đem câu này hỏi con Hải, con chú Thuận, nó hơn Mai một tuổi, ai ngờ nó cũng mù tịt, không hiểu gì hết, nhưng ráng làm tài lanh, đóng vai Mao Tôn Cương:

– Chắc nhà cô Bích nghèo, không có nhiều đăng để bắt cá!) với gia đình mình, nên ông bà Tám Dư đang đi hỏi vợ cho chú Lân dưới Cao Lạnh Cô Thu, con gái ông Hội đồng Tâm, nhà rất giàu. Một trưa chúa nhật, con Hải, thằng Lâm và Mai hẹn nhau đến nhà bà Sáu Tân. Nhà bà cất cách mặt đất độ nửa thước, dưới sàn tối om, có một đám mèo hoang trú ận Ba đứa chui vô sàn để nhìn mấy chục cặp mắt sáng rực, di chuyển trong bóng tối của lũ mèo, đang chạy lung tung vì sợ Không ngờ phía trên là phòng cô Bích. Tụi Mai nghe tiếng cô khóc nỉ non, rồi tiếng chú Lân dỗ dành:

– Em đừng lo. Anh nhứt định không cưới cô Thu đâu.

Anh thề chỉ thương mình em thôi…

Nghe đến đây ba nhóc tì bấm nhau rút lui có trật tự Vì lỡ chú biết được, tưởng mấy đứa đi rình thì no đòn! Không ngờ nhỏ Hải miệng bép xép, bật mí cho thiếm Thuận nghe, bả lật đật chạy đến nhà bà Tám Dư ” ráp bo” y chang. Cuối cùng, như tất cả những ông anh, bà chị đi trước, chú Lân cũng phải cưới cô Thu – áo mặc không qua khỏi đầu – Cô Bích thất tình, ốm nhom, ốm nhách. Nhưng vì yêu chú Lân cô vẫn ở lại trường Tân An. Hai người cứ lén lút qua lại với nhau, bị thiếm Lân đánh ghen mấy trận. Cô xấu hổ phải xin đổi đi tỉnh khác (Chuyện này Mai không thấy tận mắt, chỉ nghe con Hải kể lại. Vì lên lớp nhì, Mai theo má và chị Lan qua bên làng Phong Mỹ, cách Tân An bảy cây số).

Trường tiểu học Phong Mỹ có bốn lớp:

năm, tư, ba, nhị Lớp Mai có tới 40 học sịnh Dạy lớp Mai là thầy Hiệu trưởng Lượng Vừa tốt nghiệp Sư phạm là bị đổi xuống cái làng quê xa lơ xa lắc này. Hôm thầy và bà mẹ từ Saigòn dọn xuống, hầu như cả chợ Phong Mỹ túa ra xem, vì lần đầu họ mới thấy một người Bắc chính cống! Bà cụ trạc năm mươi (thời đó dưới quê, năm mươi đã lạ lão lắm rồi!), tóc vấn khăn nhung đen, răng nhuộm đen, người tầm thược Thầy Lương ốm, cao, trắng trẻo, đúng câu bạch diện thư sịnh Mẹ con thầy mướn căn nhà sát chợ, ngay trước cửa trường. Mọi người không dấu được sự kinh ngạc khi nghe thầy gọi mẹ bằng u. Sau này Mai nghe kể, bà cụ goá chồng sớm. Hai mẹ con dắt díu nhau vào Nam năm 54. Bà buôn tảo bán tần nuôi con ăn học cho khi thành tài. Một mẹ một con nên bà thương và săn sóc thầy một cách quá đạng Đôi khi làm thầy mắc cỡ đỏ cả mặt, gắt lên:

– U, u, u đừng làm thế!

Má mướn nhà tại chợ cho chị Lan mở tiệm may và cũng là người duy nhứt đã từng sống trên Saigòn nên dễ thân với bà cụ Có chuyện vui buồn gì cũng kể cho nhau nghe.

Như thường lệ, Mai là đứa nhỏ tuổi nhứt lợp Bên con trai có anh Dương và anh Sang tới mười bảy tuổi. Bên gái có chị Lệ Hoa và chị Kim Sa cũng mười bảy. Còn sàng sàng mười ba, mười bộn Học trò làng Phong Mỹ có phần văn minh hơn bên Tân An, vì phần lớn ở tại chợ Tuy vậy vẫn không bỏ được thói quen đi chân đật Mấy ngày đầu còn mang guốc, sau Mai phải lén má bỏ guốc ở nhạ Như vậy mới có vehoà hợp, hoà giải dân tộc!

Qua năm lớp nhì không có gì đáng ghi nhớ. Hoa. chăng thỉnh thoảng Mai thấy trong hộc bàn có một tấm tranh vẽ.

Khi thì vẽ một đoá hoa, lúc chỉ là một chiếc lá vàng.

Tranh nhỏ thôi, nhưng rất đẹp Không bao giờ có chữ ký, nhưng Mai biết tỏng là của thằng Bằng, vì trong lớp chỉ có nó vẽ đẹp nhựt Đôi khi vô tình con nhỏ còn bắt gặp cu cậu nhìn lén mình nữa chợ Những lần bị bắt quả tang, cu ta đỏ mặt lên như con gái!…. Thỉnh thoảng cuối tuần, Mai, Kim, Hằng với chị Lệ Hoa đạp xe vào chơi nhà Kim Sa, ở tuốt trong ngọn (con rạch Phong Mỹ, bắt đầu từ sông Cửu long, chạy sâu vào tuốt trong Đồng Tháp Mười.

Chỗ giáp sông gọi là vàm, cuối rạch gọi là ngọn Dân chúng cất nhà dọc hai bên bờ rạch và dùng xuồng nhỏ để di chuyện Dân quê giặt quần áo, rửa thức ăn, tắm gội, uống nước cũng chỉ với con rạch này. Nên má kể có năm, bịnh đậu mùa hoành hành, dân chúng hai bên bờ chết như rạ).

Nhiều lần tụi Mai đụng đầu với thầy Lương ở nhà Kim Sa. Thầy có vẻ hơi lúng túng, nhưng cô nàng chẳng những rất tự nhiên mà có phần hơi… kênh kênh! Cũng từ đó Mai để ý thấy thầy Lương gọi cả lớp bằng trò, trừ Kim Sa thầy gọi bằng em ngọt sớt! Lũ nhóc cà nanh, nói hành nói tỏi, không ngờ tới tai thầy. Một hôm thầy la tụi Mai một trận giữa lớp. Tụi con trai được trớn, giờ ra chơi bu lại mắng thêm, nói bọn con gái nhiều chuyện Thằng Luyện còn dám xỉ vô trán Mai nữa chớ! Cả đám tức mình khóc hu hu… Nghĩ lại tại bọn Mai thấp cổ bé miệng, chớ một lần đang chơi nhà nhỏ Kim, cách nhà thầy Lương có một căn (mẹ thầy về Saigòn thăm bà con). Chính mắt tụi Mai thấy Kim Sa vô nhà thầy. Mấy phút sau cả đám tới gõ cửa. Thầy ra mở, nhưng không đóng cửa lại mà mở toang, cho cánh cửa dựa sát vạch Tụi Mai làm bộ hỏi bài, nhưng cặp mắt đảo chung quạnh Không thấy bóng dáng ” Mụ Dạ Xoa”, (Từ hôm bị thầy rầy ” oan”, tụi Mai tức mình bèn đặt biệt danh này cho Kim Sa để trả thù!), mấy nhóc đành chào thầy. Ra ngoài, nhỏ Hằng thì thầm:

– Tao nghe rõ ràng có tiếng thở phía sau cánh cửa. Chắc chắn là Mụ Dạ Xoa núp ở đó. Tức quá chời!….

Thời gian trôi nhanh, Mai lên lớp nhứt. Thầy Lương càng ngày càng ” lậm” và cuối cùng chuyện này cũng tới tai bà cụ Mẹ thầy không thích Kim Sa, bà nói con bé có cặp mắt lẵng lơ quá (đó là lời cụ tâm sự với má Mai).

Nhứt là bà đang ngắm nghé chị Bạch (chị thằng Đức học cùng lớp Mai). Chị đẹp dịu dàng, tánh tình thùy mị, đảm đang, cả chợ ai cũng mện Bà nhờ má Mai đứng ra làm mối. Thầy Lương cũng bằng lọng Hai bên định ngày làm đám hỏi. Thứ bảy, học trò chỉ học buổi sạng Sau khi tan học, mẹ con thầy sẽ cùng với má của Mai đem lễ vật tới nhà chị Bạch Bên nhà gái chuẩn bị tiệc tùng từ hôm trược Không ngờ, học trò vào lớp được khoảng nửa giờ, bên Hội Đồng Xã cho người qua mời thầy Lương đến trụ sở có việc Thầy tỉnh queo trong khi đám học trò ngơ ngác nhìn nhau. Thầy dặn không trò nào được rời khỏi lớp trong lúc thầy vắng mặt Nhưng nhứt quỉ nhì ma thứ ba là học trò mà! Thầy vừa qua tới trụ sở Xã thì thằng Triết (lí lắc nhứt lớp), cũng đã nhảy qua cửa sổ, chạy theo núp phía sau để dọ thạm Độ mười lăm phút sau, nó hớt hải chạy về báo một tin động trời:

gia đình chị Kim Sa thưa thầy Lương về tội… dụ dỗ gái tơ và khủng khiếp hơn nữa là cô nàng đang mang bầu! Lúc đó bộ tam sên Kim – Mai- Hằng vênh mặt lên:

– Thấy chưa? Năm ngoái đứa nào nói tụi tao nhiều chyện?.

Phía con trai nín khe… Ngồi trong lớp mà đứa nào cũng như ngồi trên đống lửa. cuối cùng chịu hết nổi, cả đám rủ nhau qua trụ sợ Lúc đầu còn sợ sợ, núp núp, lén lẹn Lát sau thấy hấp dẫn quá, quên cả sợ, đám học trò chen chúc nhau xẹm Thầy Lương và bà mẹ đứng trước mặt Ban Hội Đồng (trong đó ngài phó Chủ Tịch là bác của ” nạn nhân”. Điệu này thầy thua là cái chắc!).

Kim Sa ngồi cuối gằm mặt, bên cạnh là bà dị Gia đình họ bắt thầy Lương phải nhận cái bầu và làm đám cưới ngay. Mẹ thầy đâu chịu đầu hàng dễ dàng, bà nhất định không công nhận Kim Sa và đặt một câu hỏi to tướng về tác giả cái bầu nọ!?

Trước mặt đám học trò, thầy Lương mắc cỡ đỏ mặt tía tai, quên tuốt luốt công lao dưỡng dục của bà mẹ, lớn tiếng quát:

– U im đi. U biết gì mà nói!

Không ngờ ông quí tử có thể đối xử với mình một cách phủ phàng như vậy, bà cụ Oà lên khóc, kể lể tùm lụm Những tiếng ” ối giời ôi…” cụ vừa khóc vừa rên lên khiến mọi người cũng cảm thấy não lòng! Thầy Lương xin phép dẫn mẹ về rồi sẽ trở lại. Thầy lôi tay, cụ nhất định trì lại. Sau cùng vì yếu sức hơn, bà đành theo con ra vệ Hôm sau, những lễ vật thay vì được đem đến nhà chị Bạch, lại phải trực chỉ hướng nhà Kim Sa!

Sau này, tụi Mai mới biết chính thầy Lương ” khả kính” có dự phần trong cái ” âm mưu” đi kiện này. Thầy dư biết nói suông không đời nào bà cụ chịu cho thầy cưới Kim Sa, nên mới đồng ý dựng vở tuồng này. Tuy xấu hổ một chút, nhưng kết quả trăm phần trăm! Chỉ tội nghiệp chị Bạch vỡ mộng làm bà Hiệu trưởng và gia đình chị bữa đó chờ đàng trai dài cả cổ cũng chẳng thấy đâu! Vậy mới biết khi đã vướng vào lưới tình thì sẵn sàng tung hê hết. Cả danh dự lẫn tình mẫu tử đều phải cuốn gói đi ra chỗ khác chơi!…. Bà cụ chỉ còn nước cắn răng khóc thầm.

Lên trung học Mai theo má lên Saigòn ở luôn, nên biệt tin cả đám bạn cũ. Nhưng từ khi bỏ nước ra đi, rất thường, trong mơ Mai thấy mình sống lại y hệt cái thời thơ ấu đó.

Cũng những mái trường làng rợp bóng cây xạnh Cũng giòng sông hiền hoà, mà hầu như ngày nào bọn Mai cũng nhảy xuống tắm, đến khi mặt mũi tái xanh vì lạnh mới chịu lên. Cây sung già thân thể sần sùi tại bến đó. Núp dưới bóng mát đó, chị Hạnh tươi cười mời những khách bộ hành qua lại mua những chùm mía ghim ngọt ngào, những chén bánh lọt chan nước dừa mát rượi và nhứt là tiếng hót của chú chim Vành khuyên màu xanh, mỏ vàng, nhảy tung tăng trong lồng, cặp mắt đen nhánh lúng liếng nhìn qua nhìn lại…

Sáng hôm sau dậy trễ, Mai ra bếp đã thấy Tiến đang ngồi nhâm nhi ly cà phê phin bốc khói thơm lừng, vừa đọc báo.

Thấy vợ ra, Tiến buông tờ báo xuống hỏi:

– Làm gì mà đêm qua cứ lăn lộn hoài vậy nhỏ Mai bưng ly cà phê của chồng uống một hớp:

– Nghe bài Trường Làng Tôi, em nhớ tới những mái trường xưa dưới quê lúc còn nhỏ. Nhớ muốn chết luôn!

Tiến giả bộ hốt hoảng:

– Ấy ấy, nhớ thì cứ nhớ nhưng đừng chết. Bỏ tui cu ky một mình tội lắm à nha!

Mai xì một tiếng:

– Người ta nói vậy thôi, chớ bộ ngu sao chết! Còn anh nữa, sao không bao giờ em thấy anh nói nhớ về miền Bẳc Tiến lấy giọng bi thảm:

– Ối giời, bà xã yêu quí, bộ bà tưởng ông chồng bà có trái tim bằng sắt hay sao chứ? Nhiều khi tui nhớ da nhớ diết cái xứ Hưng Yên. Nhất là vào mùa hè, mỗi khi bà mua nhãn về ăn, là lòng tui đứt ra từng đoạn (?!) vì nhớ tới mấy cây nhãn ngon không thể tả trong vườn nhà bà ngoại ngày xưa…

Mai ngắt lời, dài giọng:

– Thơ mộng dữ hôn! Nhớ gì không nhớ, chỉ nhớ mấy cây nhãn!

Tiến cười hà hà:

– Cưng ơi, cổ nhân có phán rằng:

có thực mới vực được đạo. Chà, nói đến đây anh lại cảm thấy đói bụng. Thôi đi hâm nồi bún riêu đi cưng.

Mai vừa mở tủ lạnh vừa nói:

– Thưa ông tướng có ngay. Trong khi chờ đợi, gọi dùm mấy nhóc tì dậy ăn luôn.

Tiến đứng lên cái rụp:

– Xin tuân lệnh bà nội tướng!

Hết

Truyện Tiếng Hót Con Chim Chào Mào

ứng giữa bầy đàn bốn con, con chào mào có bộ lông xám bạc với các điểm sáng lốm đốm quanh cổ tựa như những hạt nắng mai, vươn cao cổ như một anh chàng đầu lĩnh. Trông nó oai dũng như cái thuở cha nó thời còn trẻ trung, bay lượn khắp các sườn núi và cánh rừng lịm vàng ổi chín.

Con chào mào út trong đàn của đợt con thứ hai, đã mang lại lời ngợi khen từ dòng họ khi khoác bộ áo cánh bạc hiếm thấy. Sự dẻo dai và khéo léo của nó chẳng mấy chốc nổi tiếng khắp khu rừng có rất nhiều quả chín ngọt ngào.

Người ta gọi nó nó là Ánh Bạc, khi chứng kiến trong một buổi chiều sung sức nó đã biểu diễn một đường bay siêu đẳng đi xuyên qua ba cái chạc cây thẳng hàng, đứng khít nhau chỉ chừa một cái rãnh bé xíu. Với kỳ tích đó mà họ chào mào gọi nó là Ánh Bạc, bởi trông nó bay như một tia chớp màu bạc vào một buổi chiều nhạt nhòa sợi nắng.

Ánh Bạc rất tự tin từ lúc mới ra ràng. Nó sớm chán ngấy cái trò được mẹ đút ăn, chỉ muốn mau mau đứng lên trên đôi chân rắn chắc để tự mổ thức ăn cho mình. Cha mẹ nó khi thấy thái độ này đều hoan hỉ và cho đó là một đức tính tốt cho sự tự cường về sau.

Từ khi Ánh Bạc bay được, nó chẳng lúc nào tham gia những trò giành giật vô bổ đối với thức ăn mà mẹ ít khi mang về. Nó chỉ thích bay, bay cao, và bay mãi… Trong suy nghĩ mới lớn của nó cho rằng: Một khi đã bay được là nó thừa sức tìm thức ăn cho mình, đâu cần phải tham gia cái trò giành giật chỉ dành cho những con còi cọc, ốm o…

Cha mẹ Ánh Bạc rất tự hào về đứa con út, nhưng cũng không ít lo lắng với những trò quá mạo hiểm của chú chim có lắm tật nhiều tài. Ánh Bạc chỉ thích bay một mình và thường tranh tài bay nhanh với bất kỳ loài chim nào. Đấy chính là điều mà cha mẹ nó lấy làm lo lắng cho đứa con yêu bướng bỉnh.

Dòng họ chào mào thường nghe tiếng quát tháo của đôi vợ chồng già trước đứa con tinh nghịch quá quắt.

– Cruýt… cruýt… Nguy hiểm… Nguy hiểm… Cruýt… cruýt…

Hoặc đại loại:

– Cruýt… cruýt… Diều hâu… Diều hâu… Cruýt… cruýt…

Mặc kệ những việc ấy, Ánh Bạc vẫn sống theo sở thích quái ác của mình. Nó thường bay xa, đi riêng lẻ đến lúc tối mịt mới trở về tổ. Không ít lần nó đối diện với hiểm nguy khi bị chim cắt săn đuổi. Nhưng với tài khéo léo và nhanh nhẹn nó vẫn tránh thoát để trở về nhà an toàn. Mẹ nó khi biết chuyện chỉ thở dài:

– Cruýt… cruýt… May mắn… May mắn… Cẩn thận… Cẩn thận… Cruýt… cruýt…

Ánh Bạc quá trẻ để ý thức về sự may mắn của mình. Nó chỉ nghĩ, đã thoát được một lần thì lần sau vẫn như thế…

Rồi trong một chiều thưa thớt nắng, nó bị kẻ thù cũ săn đuổi. Đó chính là con chim cắt đã săn hụt nó mấy hôm trước. Lần này kẻ địch rất ranh ma chia cắt không cho nó lao vào cánh rừng. Chim cắt biết Ánh Bạc rất nhanh, không thể nào đuổi theo nó qua các cành lá dày đặc. Thế là cuộc rượt đuổi diễn ra suốt cả buổi chiều. Ánh Bạc mệt lử khi phải liên tục đảo hướng để tránh những cú vồ hiểm ác. Con chim cắt rất khôn ngoan, luôn dồn Ánh Bạc ra dải bình nguyên rộng, không có lấy một cành cây. Cuộc thi tài sinh tử đang đe dọa Ánh Bạc thì may mắn xuất hiện. Mấy đứa trẻ quanh đấy dùng cây có chạc cắm xuống đất làm trụ đá bóng, và chính điều này đã cứu mạng Ánh Bạc.

Khi trông thấy cái chạc, Ánh Bạc vui mừng khôn xiết. Nó cố dẫn con chim cắt lao theo đường bay của mình, rồi bất thần ngoặt người rất nhanh, xuyên qua hai cái chạc. Con cắt tránh được cái chạc thứ nhất, nhưng đến cái thứ hai thì đôi cánh đập vào. Nó giãy giụa rơi xuống đất, trong khi Ánh Bạc hốt hoảng bay mất…

Từ hôm suýt chết trên đường đua tử thần, Ánh Bạc trở nên ngoan ngoãn hơn đôi chút, nhưng vẫn không bỏ cái tính thích đi rong rủi một mình. Nó thường mằn mò ra tận bãi biển, nhìn những anh hải âu chao lượn trên các cánh buồm của tàu hải dương với niềm thích thú không sao cưỡng được. Ôi! Nhìn những anh hải âu lượn tới, lượn lui không biết chán. Ánh Bạc ao ước mình cũng có một đôi cánh rộng, được lượn bay giữa ngàn sóng gió đại dương. Nhất là nó có thể theo chân các con tàu, khám phá rất nhiều điều mà cuộc sống đất liền vốn ngăn trở không sao thực hiện được.

Ánh Bạc mãi mê với những điều mình chưa biết mà quên mất những bài học cha và mẹ đã dặn dò. Nó nghĩ, mình có thể học mọi thứ ở ngoài đời mà không cần bất cứ sự dạy dỗ của ai, ngay cả cha mẹ mình. Cuộc sống hoang đàn khiến Ánh Bạc kênh kiệu, tỏ ra bất cần những người xung quanh với thái độ khinh khỉnh ra mặt. Chính điều này khiến nó ít bạn, vì không ai thích giao du với một con chào mào mới lớn, lại tỏ vẻ kẻ cả hơn người…

Rồi mùa đông khắc nghiệt về. Họ nhà chim bắt đầu mùa di trú, tìm về những vùng ấm áp có nhiều thức ăn. Cánh rừng nơi Ánh Bạc sống vốn tràn ngập ánh nắng nên chim chóc kéo nhau đến mỗi lúc một đông. Trái chín trong rừng bị chim mổ ăn rơi rụng khắp nơi, và điều này khiến con người bắt đầu để ý đến. Nhiều đứa trẻ xách trên tay những vật dụng rất lạ, có cả lưới, đi sâu vào nơi đàn chào mào ở. Có hôm Ánh Bạc thấy trong đàn thiếu vắng mấy con nhưng vẫn không để ý đến. Việc này cứ tiếp tục tái diễn đến khi cha mẹ nó cất tiếng cảnh báo cho cả đàn:

– Cruýt… cruýt… Có bẫy… Có bẫy… Cruýt… cruýt…

Chào mào mẹ kêu khóc vì đã mất một đứa con, anh của Ánh Bạc. Điều này làm Ánh Bạc buồn, nhưng không bao lâu thì quên bẵng. Nó tiếp tục nhởn nhơ với nếp sống buông thả và không buồn để ý đến lời khuyên của mẹ.

Một hôm, nó đi lang thang trong rừng và phát hiện một trái chuối chín vàng rất ngon, được treo bên một cái lồng. Mùi trái chín gợi cho Ánh Bạc sự thèm thuồng không sao cưỡng được. Nó mon men đến gần rồi rơi vào bẫy của con người. Cái lưới sập xuống nhốt Ánh Bạc vào trong, khiến cho nó vướng víu và kinh hoảng thét lên. Nhưng mặc cho nó gào thét, miệng lưới vẫn khép chặt, không chừa một khe nào để Ánh Bạc có thể chui ra.

Buổi chiều hôm đó khi Ánh Bạc chán nãn nằm im thì có người đến bắt nó bỏ vào một cái lồng kẽm.

Cảm nhận được mối hiểm nguy, Ánh Bạc nhảy tưng tưng và cố gào thét gọi bầy đàn.

– Cruýt… cruýt… Cứu… Cứu… Cruýt… cruýt…

Đây là lần đầu tiên trong đời Ánh Bạc kêu cứu. Nhưng dù cho nó có kêu la thảm khóc cũng chẳng ai đến giúp đỡ một con chim đơn độc, không có lấy một người bạn…

Người ta nhốt Ánh Bạc vào cái lồng cực đẹp, có vải bọc bên ngoài để che chắn gió vào lúc tối. Nó được cho ăn và uống nước đàng hoàng nhưng vẫn kêu buồn bã. Đó là tiếng kêu ai oán của một con chào mào đã mất tự do, chỉ còn biết nhìn bầu trời rộng lớn qua chấn song của cái lồng nhỏ. Ánh Bạc hung hãn nhảy loanh quanh cái lồng. Nó lộn ngược lộn xuôi, tìm mọi cách để thoát ra nhưng không thành. Mọi cố gắng của nó chỉ đem lại nhiều vết xước và những chiếc lông xù xì bắt đầu rơi ra. Cuối cùng hết cách, Ánh Bạc đứng hiu hắt buồn, nhìn về bầu trời quê hương trong nỗi tiếc nhớ. Qua ngày thứ hai thì nó bắt đầu rơi những giọt nước mắt đầu tiên cho sự hối tiếc. Nó tiếc mình không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, mới sa vào bẫy và mất đi bầu trời xanh quen thuộc. Nó ân hận vì tự xa lánh mọi người nên không được ai khuyến cáo trước khi bước vào bẫy. Và cuối cùng nó đành ôm lấy ước mơ được đi chu du thiên hạ như anh hải âu, trong nỗi sầu thảm không người san sẻ.

Có những đêm trong giấc ngủ, nó thấy mình đang tung cao đôi cánh, uốn lượn quanh những cánh buồm trên các con tàu vượt trùng dương. Nó thích thú kêu lên vang vang, khiến con người ở cạnh đó cũng giật mình chạy đến. Hóa ra Ánh Bạc đang mơ! Giấc mơ của niềm ao ước khắc sâu khi nó còn bé xíu, đứng nhìn những anh hải âu bay lượn trên nền trời xanh thẫm…

Sáng ngày, những điều đã thấy trong mơ khiến Ánh Bạc bứt rứt, khó chịu. Nó nhảy nhót loạn lên, khiến chiếc lồng đung đưa như muốn rời khỏi móc. Chiếc lồng càng lắc lư, Ánh Bạc càng nhảy tợn và cáu tiết la lên giận dữ. Nó không muốn mình trở thành con chim đứng lồng với những lời ngợi khen. Cái nó muốn là sự tự do và được thể hiện ý chí, hướng đến mọi ngả đường với khoảng không bao la.

Ngày ngày trôi qua trong nỗi buồn ảo não. Ánh Bạc bắt đầu nhớ đàn nên cất tiếng kêu trong vô vọng. Một vài con chào mào bay qua nhưng không chú ý đến nó. Tiếng kêu vang của nó hết ngày này đến ngày khác, cuối cùng cũng được đồng loại hưởng ứng. Một đám chào mào mới lớn, thấy Ánh Bạc có màu lông thật kỳ lạ nên mon men lại gần. Ánh Bạc mừng lắm và bắt đầu kêu gọi sự giúp đỡ. Nhưng những chú chào mào đến vì sự bất ngờ hơn là lòng hảo tâm. Chúng nó nhìn nhận Ánh Bạc như là một kẻ lạ, sống du cư và vô kỷ luật nên bị sa bẫy con người. Chúng nó đến vì tiếng kêu của đồng loại chứ chưa sẵn lòng giúp đỡ kẻ bị nạn. Thế là Ánh Bạc kể lể cho chúng nghe những điều mình trông thấy, và cả những giấc mơ vượt trùng dương đến những nơi xa lạ. Đám chào mào vểnh tai nghe những điều ấy với vẻ lý thú không sao rời được. Và rồi không có cách giúp Ánh Bạc, nhưng ngày nào bọn chúng cũng đến để nghe những ước mơ cháy bỏng từ một con chào mào có bộ lông thật khác biệt.

Ước muốn được đi và nhìn ra thế giới của Ánh Bạc bắt đầu lây sang các con chào mào. Nhưng loài chào mào vốn nhút nhát nên chỉ lắng nghe, chứ không con nào dám tự bay ra mé biển để trông thấy những cánh buồm căng gió. Dù vậy, bọn chúng vẫn nuôi lấy ảo tưởng mà người khác gieo cho mình, bằng cách lắng nghe tâm sự của Ánh Bạc với sự ngưỡng mộ lớn lao.

Sự tụ tập của đàn chào mào khiến một con mèo chú ý. Nó khẽ khàng bò theo thanh xà nhà đến cạnh cái lồng nhốt Ánh Bạc. Rồi bằng một động tác mềm mại, con mèo nhảy xổ vào cái lồng chim. Đàn chào mào hốt hoảng bay lên mà không trông thấy cái lồng đã rơi xuống đất. Cái móc bật ra và thế là Ánh Bạc thoát được. Cất tiếng kêu lên vui mừng, Ánh Bạc bay ngang qua mũi con mèo như một sự trêu tức. Nó vượt lên trên và hòa vào đàn chào mào mà bây giờ đã trở thành bạn thân thiết.

Không thể nào nói hết được niềm vui của Ánh Bạc. Nó bay cao và kêu lảnh lót trong sự tự do quý báu vừa tìm lại được.

Bỗng Ánh Bạc nghe tiếng kêu hoảng hốt của đàn chào mào. Nó đảo người nhìn xuống thì phát hiện ra một con chim cắt đang đuổi theo một chú chào mào xám. Không cần nghĩ ngợi nhiều, Ánh Bạc lao xuống. Nó cắt một đường cánh cung và xẹt ngang qua mũi con chim cắt như trêu tức. Con cắt tức giận điên lên vì bị phá bĩnh nên lập tức đuổi theo Ánh Bạc. Cuộc rượt đuổi hung hãn của kẻ săn tìm dẫn Ánh Bạc về nơi trú ngụ ngày xưa. Nó cố dụ con cắt lao về hướng có ba cái chạc thẳng hàng với cái khe bé xíu…

Từ trên cao Ánh Bạc như một tia chớp lao xuống ba cái chạc cây, phía sau là con chim cắt hung dữ không chịu buông tha con mồi…

Đàn chào mào nín thở nhìn theo cái tia bạc ánh lên trong nắng chiều nhạt nhòa… Tiếng kêu đau đớn vang lên… Con chim cắt va mình vào thân cây rơi xuống chết… Không ai trong bọn chào mào nhìn thấy Ánh Bạc. Không thấy Ánh Bạc bay lên…?

Cả đàn chào mào bay xuống chỗ ba cái chạc cây, nơi Ánh Bạc đang cố gượng dậy với bộ lông nhuộm đầy máu. Nó chỉ bay xuyên qua được hai cái chạc cây vì bị nhốt lồng quá lâu. Ngực nó đập vào cái chạc thứ ba và rơi xuống đất…

Những con chào mào xoay quanh vị anh hùng của mình với sự thán phục, lẫn niềm tiếc thương…

Ánh Bạc cố lắm mới gượng dậy được. Nó run rẩy hồi lâu rồi chập choạng bay lên, hướng ra phía biển. Cả đàn chào mào bay theo nó trong im lặng…

Đang bay, Ánh Bạc bỗng chấp chới rồi hạ xuống một nhành dương. Nó không còn đủ sức dẫn cả đàn ra tới biển để nhìn thấy những cánh buồm, nơi chứa đựng niềm ao ước và khát khao của đàn chào mào.

Ánh Bạc nhìn về phía biển kêu lên tiếng kêu của khát vọng, niềm ao ước được khám phá thế giới, rồi xoạc cánh rơi xuống…

Cả đàn chào mào vụt kêu lên ai oán, cùng tiễn đưa vị anh hùng ra đi trong niềm tiếc nhớ…

*

Từ sau sự kiện thương tâm đó, không ai còn tìm thấy con chào mào nào có bộ lông xám bạc như Ánh Bạc. Thỉnh thoảng cũng xuất hiện một vài con, nhưng chỉ điểm lốm đốm vài chấm bạc hiếm hoi trên đôi vai xám mà thôi. Duy một điều không ai có thể phủ nhận: Ước mơ cháy bỏng của Ánh Bạc đã để lại dấu ấn trong dòng họ chào mào, với hình ảnh cánh buồm đón gió mà mỗi con đều kính cẩn mang trên đầu. Và khi mùa ổi chín về, lại văng vẳng đâu đây điệu đồng dao của thuở nào:

Chào Mào có áo màu nâu. Cứ mùa ổi tới từ đâu bay về…

Bình Tân. 09.10.2011.

MACDUNG

Bạn đang xem bài viết Truyện: Tiếng Hót Chim Sơn Ca trên website Topcareplaza.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!