Cập nhật thông tin chi tiết về Truyện Convert Chưa Xác Minh mới nhất trên website Topcareplaza.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Giới thiệu nội dung
Nguyễn gợn hàm ngậm lấy chìa khóa vàng xuất sinh, rất đáng tiếc đánh một tay nát bài, hai mươi lăm tuổi tiếp nhận ức giương giải trí, không chỉ có lớn mạnh xí nghiệp, càng là hồng nhan họa thủy, sa vào với ôn nhu hương, bởi vì Tần Hải dao một nữ nhân, ngã xuống thần đàn, thật tình không biết nàng là Nam Dương giải trí Tần tổng con gái tư sinh, một mực lợi dụng nàng, mê hoặc nàng, an bài tính toán Nguyễn gia hết thảy, để nàng táng gia bại sản, cửa nát nhà tan. Ba mươi tuổi tại Tần Hải dao hôn Nguyễn gợn hàm ngậm lấy nước mắt nói “Yêu nàng” một khắc này, Nguyễn gợn hàm minh bạch tất cả. Nàng lòng như tro nguội, ngã xuống sườn núi bỏ mình, để người thổn thức. Thử hỏi, một lần nữa, Nguyễn gợn hàm sẽ còn như thế sao? Nhưng ai cũng nghĩ đến, Nguyễn gợn hàm thật sống lại, vẫn là sống lại tại hai mươi lăm tuổi, trong đời của nàng nhất hăng hái huy hoàng một năm kia. Nguyễn gợn hàm nhìn xem trong gương mình cười lạnh, nợ máu trả bằng máu, nàng tuyệt sẽ không vòng qua Tần Hải dao. Gặp lại lần nữa. Là hai người lần đầu gặp tiệc tối bên trên. Nguyễn gợn hàm đem Tần Hải dao đè lên tường, hung dữ nhìn xem nàng, óng ánh dưới ánh đèn, Nguyễn gợn hàm lại trông thấy trong mắt nàng lấp lóe nước mắt. Bây giờ, Nguyễn gợn hàm nhìn qua ngày xưa nàng yêu sâu nhất nhưng lại tổn thương nàng sâu nhất nữ nhân lại có dao động, nàng gãy Tần Hải dao cánh, coi nàng là chim hoàng yến đồng dạng giam cầm ở bên người, để Tần Hải dao nhìn xem, nàng là như thế nào tự tay đem lúc trước Tần Hải dao đối với mình làm sự tình một chút xíu gấp bội trả lại nàng. —— tình yêu có thể nhiều nồng, hận sâu bao nhiêu? Nàng sóng mắt tiêu hồn chờ ngươi mắc câu; nàng khinh cuồng mê say để ngươi điên cuồng; nàng vũ mị yêu kiều để ngươi lòng say; nàng bò lên trên ngươi ấm áp giường; nàng cùng ngươi trắng đêm triền miên; nàng một đao đâm vào tâm của ngươi nhọn; nàng ôn nhu liếm láp miệng vết thương của ngươi; lại ngẩng đầu, khóe mắt nàng vẫn như cũ là để ngươi mê luyến vũ mị. *** mọi người cất giữ một chút lá cây tiếp theo bài này nha, « cường thế bảo hộ » mục hồi gần đây không may cực. Vừa mới qua xong hai mươi ba tuổi sinh nhật, nàng hứa nguyện vọng, hi vọng mình sớm ngày thoát đơn, nhưng trong miệng nàng bánh gatô vị còn kịp tán đi, đi ra ngoài liền để xe đụng. Nàng chóng mặt đứng lên chuẩn bị tìm đối phương lý luận, chỉ thấy cửa xe bị mở ra, đối phương trong xe đi ra một cái phong hoa tuyệt nguyệt nữ nhân, nàng mặt mày như vẽ, khói mắt nhìn xem mục hồi.”Thật xin lỗi, không cẩn thận đụng bị thương ngươi, ngươi hết thảy tiền thuốc men hộ lý phí ngộ công phí ta đều sẽ bồi thường, đây là danh thiếp của ta, sau này, có cái gì sự tình đều có thể tới tìm ta.” Giọng của nữ nhân nhàn nhạt, mục hồi trong tay nắm bắt kia còn hiện ra mùi hương thoang thoảng danh thiếp, vốn nên thốt ra gắt gỏng đều bị sinh sinh nuốt xuống. —— sau này có cái gì sự tình đều có thể tới tìm ta. Mục hồi vẫn cho là đây bất quá là một câu khách sáo đánh rắm lời nói, thế nhưng là ngày thứ hai, nàng khập khiễng đi công ty lúc phát hiện, cái kia thích nhất chỉ về phía nàng cái mũi chửi ầm lên cấp trên thế mà rời chức, mà khoanh tay đứng tại trước mặt nàng chính là hôm qua đụng nàng nữ nhân Tần như mộng. Từ đây sau này, cuộc sống của nàng phát sinh biến hóa nghiêng trời lệch đất… Đi ra ngoài mua xổ số trúng thưởng? Microblogging rút thưởng đến một đài quả táo điện thoại? Công ty phối xe nhà ngang? Phàm là khi dễ nàng người đều sẽ không may? Trọng yếu nhất chính là mới Boss tại sao kiểu gì cũng sẽ sâu như vậy tình nhìn xem nàng, cuối cùng nhất còn tại nàng đối với người khác cười thời điểm, ở bên tai của nàng nói: “Ta là vợ của ngươi, ngươi chỉ có thể đối ta một người cười.”
Mông Cổ Thuyết Minh Truyện (Phần 2)
Năm 1241, ở địa hạt vùng Đông Âu, vó ngựa của đoàn quân bách chiến vạn thắng đã vượt qua Hungary, Áo xuyên qua dãy nũi Ural để lần lượt tiến vào La Mã. Vị tướng quân của họ ngồi trầm tư nhìn về vùng đất phì nhiêu, trong đầu ông không có gì ngoại trừ những toan tính. Những toan tính nung nấu có thể đánh sập cả một nền văn minh được hình thành trên 1000 năm có tên La Mã thì….”Đại Tướng, ngài về lại Mông Cổ, ngài phải dự đại hội kurultai ngay để bầu một Khả Hãn mới, Quốc Vương Oa-Khoát-Đài đã băng hà!”- tiếng bẩm báo của người lính trẻ. Nghe xong từng câu chữ, vị đại tướng thở dài, nhìn vào bản đồ, vuốt nhẹ chòm lông sói đội trên đầu và rồi ông hạ lệnh “Tạm ngưng các kế hoạch chờ ta”. Ngay hôm sau, vị đại tướng cùng đoàn tuỳ tùng tức tốc chạy về lại thủ đô Karakorum. Lịch sử nhân loại có thể tước đi bản hùng ca lẫy lừng và bất tận của loài người ngay từ giây phút ấy. Rất nhiều nhà sử học về sau đã phân tích “Nếu Tốc Bất Đài (tên của vị đại tướng) không phải về lại thủ đô, có khi cả Châu Âu đã là thuộc địa của Mông Cổ”. Chừng ấy đủ nói lên sức mạnh của những đoàn quân Mông Cổ, những đoàn quân bất diệt trên lưng ngựa….
Xứ Cỏ Xanh ấy cũng như bao quốc gia trên đời, có lịch sử. Có những nơi, Lịch Sử là những ghi chép của việc chống lại các cuộc xâm lăng – nước mình. Ở những nơi khác, là những ghi chép oai hùng của việc dựng nước, đấu tranh tự do, đi tìm bình đẳng giữa người với người, của đại diện cho chủ nghĩa tư bản – nước Mỹ. Đối với Mông Cổ, lịch sử của họ có thể như ví như một trái bóng hơi, thổi lên rồi xì xuống nhanh chóng cả về diện tích…lẫn tầm ảnh hưởng.
Để mình kể cho nghe….
Lịch sử sơ khai xứ này có lẽ còn khá xa lạ với người Việt, ngoại trừ những gì được kể lại trong lịch sử của Trung Quốc. Trong sử sách tiếng Trung, những người Mông Cổ thuỷ tổ vốn dĩ là những “rợ phương Bắc”. Ngay cả trong tác phẩm nổi tiếng – Lịch Sử Thế Giới – của dịch giả nam kỳ Nguyễn Hiến Lê, ông cũng dùng cụm từ này để nói về những người Mông Cổ xa xưa. Xuất xứ, địa hình và lối sống khác biệt nhau hoàn toàn giữa người Trung Quốc và người Mông Cổ xưa khiến họ có cái nhìn thiên lệch về nhau một cách trầm trọng. Một bên nay đây mai đó, gọi trời là nhà, cỏ cây là bạn, một bên trồng lúa trổ hoa toạ cư một chổ, ngâm thơ, luận triết Khổng Lão thành ra bên này khi gặp bên kia cứ nhìn nhau như người ở trển rơi xuống hoặc như trong rừng mới ra nên gọi nhau thân thương là “rợ”.
Trong khoảng 12 thế kỷ đầu tiên từ khoảng năm 200 TCN tới thế kỷ thứ 10, lịch sử của Mông Cổ là lịch sử của sự đa hợp về chủng tộc. Về bản chất ban đầu, những người Mông Cổ xa xưa vốn…không phải là người Mông Cổ ngày nay. Vùng đất mà ngày nay người Mông Cổ tự trị từng là quê hương của rất nhiều các chủng tộc khác nhau di cư đến, lập ra đế chế, rong ruổi đánh trận rồi lại đi. Họ là những người Hung Nô, người Tiên Ti, Đột Quyết, Nhu Nhiên, Kazhak, Kirgyz… Tuy có thể khác nhau về sống mũi, màu mắt nhưng tất cả họ đều giống nhau ở lối sống du mục chăn thả nên tạm gọi họ là các bộ lạc Du Cư. Những bộ lạc Du Cư du mục sống thành từng cụm di chuyển trên những cánh đồng đầy cỏ của họ. Những tổ chức người Du Cư xa xưa ban đầu sống thành bộ lạc gồm nhiều gia đình đông con lắm cháu. Các bộ lạc này vẫn giao du qua lại trên các đồng cỏ, lúc hoà bình, khi binh biến, lúc hợp sức, khi tanh bành.
Sống riết một nơi cũng chán, vốn bản tính thích di dân, những bộ lạc Du Cư lâu lâu cũng di chuyển đàn ngựa họ xuống phía Nam, tổ chức những trận đánh với người hàng xóm Trung Quốc. Những cuộc diễu binh bên này bên kia cứ truyền kỳ dai dẳng. Đế quốc hùng mạnh đầu tiên ngự trị vùng Mông Cổ phải kể tới Hung Nô. Vua Hung Nô thời đầu khá oai hùng, tên ông là Mạc Đốn. Tên như vậy nhưng ông không đốn mạt tí nào, ngược lại đế chế do ông dựng nên trở thành nổi khiếp sợ của Trung Hoa, một đế chế quyết quyết nam chinh. Bên phía còn lại, người Hoa cũng đời này đời kia ngao ngán chống trả giặc Hung Nô. Khi Trung Quốc lần đầu thống nhất về một mối, Tần Vương Thuỷ Hoàng vì giặc Hung Nô mà hạ lệnh gãy gọn “Xây cho Trẫm cái tường chặn bọn chúng lại, Hung với chả Nô, quậy phá quá”. Bức tường ấy bây giờ vẫn còn, tên là Vạn Lý Trường Thành kéo dài tới hàng nghìn cây số ,trở thành kỳ quan nhân loại, mỗi năm vài triệu lượt người tới check-in.
Trường Thành trở thành khu vực địa lý quan trọng phân chia chiến tuyến giữa đế chế Hung Nô và nhà Tần, nhà Hán của Trung Quốc. Lần Lượt Tần, Hán đều có thuật lại về người Hung Nô trong các biên sử của mình. Tới đời nhà Hán, sử kể có khi Hung Nô quá mạnh, nhà Hán đôi lần phải đóng vai chư hầu nước bé, mỗi năm triều cống sản vật cho vua Hung. Chả biết cống gì nhưng có thể đoán chắc cống phẩm phải là lúa gạo, rau xanh, trà chè cũng nên vì “rợ phương Bắc” có …trồng được đâu. Việc ban giao, hôn ước hoà hoãn hay cống nạp hồng nhan cũng hay diễn ra. One of Tứ Đại Mỹ Nhân Trung Hoa tên Quân họ Chiêu (tên đủ là Vương Chiêu Quân) cũng được cử sang hầu hạ đoạ mình làm thiếp vua Hung. Chắc nhờ vậy nhan sắc phụ nữ vùng Trung Á, hậu duệ Hung Nô về sau thuộc hàng đẹp lạ trên đời. Đế Quốc Hung Nô có thể được nhớ tới nhiều nhất vì họ là nguyên nhân của bức tường Vạn Lý và lịch sử của đế quốc này đi kèm với nhà Tần, nhà Hán, những triều vương vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa.
Sau đời Hung Nô, lần lượt nhà Tiên Ti rồi Nhu Nhiên, Đột Quyết làm chủ xứ cỏ xanh. Lịch sử các nhà này cũng không có gì đặc sắc để mà kể, chỉ riêng nhà Nhu Nhiên đặt tước hiệu nước mình là Khả Hãn, danh từ mà về sau con cháu ai ai cũng phải nhắc, phải nghe.
Thoát cái hơn 1000 năm đã trôi qua, lịch sử xứ này có lẽ sẽ không sôi động hào hùng cho tới một ngày…
Borte là một cô bé người Kahzak thuộc bộ lạc Khongirad sinh ra ở vùng đồng cỏ Khetti, phía Đông của Mông Cổ ngày nay. Giống như bao cô gái du mục đồng trang lứa, Borte ở nhà từ nhỏ và phụ giúp mẹ làm những việc nội trợ gia đình. Trong đời sống người Du Mục, hàng ngày đàn ông và trẻ em là nam phải đi chăn thả, trong nom cho đàn gia súc của mình, còn những người phụ nữ ở nhà, công việc chính thuộc về may mặc, nấu nướng và lên men sửa để làm thức ăn dự trữ. Nhờ có họ, những mớ da cừu, da bò trở thành những chiếc áo choàng ấm áp, những mẻ sửa tươi cùa đàn gia súc trở thành những loại bánh sửa, cheese và rượu. Đàn ông ra đồng cỏ, đàn bà làm chủ nhà, tất thảy mọi việc trong gia đình từ sáng đến chiều muộn đều do một tay người phụ nữ đảm nhận. Cha của Borte là thủ lĩnh của bộ lạc. Ở thời kỳ này, việc hứa hôn thường xảy ra giữa con trai con gái những ông tộc trưởng với nhau khi đôi trẻ còn cắn móng tay lên 9 lên 10. Borte chắc chưa định hình được chuyện này nhưng cũng hiểu mơ hồ một ngày nào đó sẽ có một thằng bé trạc tuổi mình tới và xem mặt mũi mình tròn méo đỏ hồng thế nào.
Rồi cũng đến một ngày, cha cô ở nhà thay vì phi ngựa ra đồng cỏ. Ông ăn mặc trịnh trọng, khoác lên mình chiếc áo lông cừu mới khô mùi hanh, đội trên đầu chiếc mũ lông sói thể hiện quyền lực, rượu và thịt đầu cừu đã được chuẩn bị chu đáo. Chắc chắn ông đang đợi đón tiếp một vị khách hết sức đặc biệt. Tộc Trưởng Yesugei của bộ lạc Kiyad chính là vị khách hôm ấy. Ông cùng đoàn tuỳ tùng gồm 10 người được tiếp đón nồng hậu. Kiad và Khongirad vốn là hai đồng minh thân cận trên đồng cỏ. Khi này, những người đàn ông tay bắt mặt mừng, thể hiện lời chào hỏi qua màn đấu vật thị uy sức mạnh, rượu thịt được khai mào, trà dư tửu hậu xoay quanh những câu chuyện bàn tán về số lượng cừu dê ngựa mỗi bên anh có, về số lượng chó sói, đại bàng đôi bên đã săn được. Borte cũng tò mò về những vị khách lạ. Cô bé bỗng thấy một cậu bé đang sửa lại yên ngựa của mình, cậu khoác lên mình bộ đồ trắng cùng chiếc mũ lông sói, khuôn mặt toát lên vẻ tinh anh lạ thường. Bước được vài bước lại gần và chưa kịp nói thì cậu bé áo trắng ấy đã cất tiếng trước, đôi tay vẫn chỉnh cái yên ngựa, mắt vẫn không đoái hoài tới Borte. – Cậu bao nhiêu tuổi? – Mình 10 tuổi , còn cậu? Borte đối đáp. – Thế cậu lớn hơn tôi một tuôi, cha tôi hôm nay dẫn tôi đi hỏi vợ, cha tôi bảo rằng một người đàn ông thực thụ là người phải chọn được vợ cho mình. – Thế cậu tên gì? Borte gặng hỏi. – TEMUJIN. Vừa nói cậu bé vừa ngước nhìn Borte trong ánh mắt của một cậu trẻ thơ nhưng đầy rẫy hào khí đàn ông .
Borte chỉ cười mỉm nhưng cô bé đã hiểu, cậu nhóc này chính là người đó, người mà về sau cô sẽ đóng vai như mẹ mình và gọi người này là phu quân.
Câu chuyện trên xảy ra vào thế kỷ thứ 11, thời điểm mà vùng đất cỏ xanh bị phân chia cát cứ thành nhiều bộ tộc khác nhau như thưở ban đầu. Vùng đồng cỏ đã mất đi tính thống nhất trong hàng nghìn năm trước của các đế quốc và dường như tất cả chỉ đang chờ đợi một vị thủ lĩnh vĩ đại hơn xuất hiện.
Cái tên Temujin, tiếng Hán phiên âm là Thiết Mộc Chân. Sử sách đời sau dù là tiếng gì thì khi dịch ra Tiếng Việt đều sẽ có câu ” Thành Cát Tư Hãn tên thật là Thiết Mộc Chân”.
(Bài viết theo mạch cảm xúc của tác giả về vùng đất mà anh đã đến và đi trên 10 lần) Cao Hoài Vĩ
Mông Cổ Thuyết Minh Truyện – Phần 2
Hotline tư vấn: 0366.55.66.77
Trụ sở chính Migola Travel: 1A Công Trường Mê Linh, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Truyện: Tiếng Hót Chim Sơn Ca
Ở Trung Quốc, nơi mà Hoàng đế là một người Trung Quốc và tất cả quần thần cũng là người Trung Quốc, các bạn hẳn cũng biết điều đó, đã có một câu chuyện.
Câu chuyện này xảy ra lâu lắm rồi, nhưng chính vì thế mà phải kể lại để người ta khỏi quên đi. Cung điện của Hoàng đế đẹp nhất trần gian, làm bằng một loại sứ rất quý, nhưng dễ vỡ, mỗi khi chạm đến phải thật nhẹ tay, nhẹ chân. Trong vườn Thượng uyển trồng toàn những loại hoa quý, rất kỳ lạ, những bông hoa đẹp nhất phải đeo lục lạc bằng bạc để cho du khách khi đến xem phải lưu ý. Khu vườn được chăm sóc kỳ công và trải rộng, ngay người làm vườn cũng không biết đến đâu là hết. Càng đi càng gặp nhiều điều kỳ thú, những cây cao bóng cả vươn dài, những hồ rộng mênh mông sâu thẳm. Rừng thoai thoải xuống biển, trên làn nước xanh những con thuyền lớn có thể lướt dưới bóng cây. Nơi đây có con hoạ mi thường cất tiếng hót mê hồn. Một anh thuyền chài nghèo khổ lòng chứa chất bao nỗi lo toan dăng lưới đi qua, nghe tiếng chim hót cũng phải dừng lại nghe. Anh reo lên: “Trời ơi, Thánh thót biết bao”. Nhưng rồi mải mê với công việc, anh ta quên chim ngay. Đêm sau đi dăng lưới qua đấy, anh lại nghe tiếng chim hót: anh lại đứng lại nghe và lại reo lên: “Trời ơi, Thánh thót biết bao”. Khách tham quan từ nhiều nước trên thế giới kéo đến hoàng thành. Họ ca ngợi hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng khi nghe hoạ mi hót, họ đồng thanh reo lên: “Đấy mới là điều kỳ diệu”.
Trở về quê hương, họ thuật lại những điều mắt thấy tai nghe. Nhiều học giả đã viết thành sách ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng người ta ca tụng hoạ mi nhiều hơn cả, những thi sĩ nổi tiếng đã làm những bài thơ kiệt tác để ca ngợi con chim hoạ mi hót hay trong khu rừng bên bờ biển. Sách được truyền đi khắp nơi, có quyển lọt vào tay Hoàng đế. Người chăm chú đọc, nhiều lúc gật đầu tán thưởng những đoạn văn hay ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển.
Đọc tiếp, người thấy có đoạn viết: “Nhưng con chim hoạ mi mới thật là kỳ diệu!” Hoàng đế ngạc nhiên:
– Gì thế này? Con chim hoạ mi à? Sao ta lại không biết nhỉ? Có đúng là trong giang sơn ta; hơn nữa lại ngay trong vườn của ta, lại có một con chim như thế không? Ta chưa hề nghe nói bao giờ, lạ thật! Hoàng đế truyền gọi quan thị lang là người cầm quyền cao chức trọng; mỗi khi có kẻ dưới đến trình báo hay thỉnh cầu điều gì, ngài chỉ trả lời cộc lốc: “Hớ!” Hoàng đế phán hỏi:
– Ở đây chừng như có một con chim người ta gọi là hoạ mi. Thiên hạ cho rằng con chim này là loại chim quý hiếm. Vậy sao chưa thấy ai tâu với Trẫm?” Quan thị lang thưa: – Muôn tâu bệ hạ, chính hạ thần cũng chưa nghe thấy nói bao giờ và cũng chưa thấy ai đem đến tiến cử. – Vậy ngay tối nay phải đem nó đến hót cho Trẫm nghe. Thiên hạ biết đến vật báu của Trẫm mà riêng Trẫm lại không biết! Quan Thị Lang tâu: – Muôn tâu bệ hạ, thực tình hạ thần chưa hề thấy con chim ấy, nhưng hạ thần xin đi tìm nhất định sẽ tìm được. Nhưng tìm đâu? Quan Thị Lang đã leo lên khắp lầu son gác tía, qua khắp các cung điện và đường lối đi lại, gặp ai cũng hỏi, nhưng chẳng ai biết gì về chim hoạ mi cả. Quan Thị Lang lại vào chầu hoàng đế: – Tâu thánh thượng – Ngài nói – Có lẽ sách đã đánh lừa độc giả, xin bệ hạ đừng tin, đây chỉ là chuyện hoang đường. Hoàng đế phán: – Những sách ta xem là những sách của Hoàng đế Nhật Bản gửi tặng, lẽ nào lại là chuyện bịa đặt? Trẫm muốn được nghe chim hoạ mi hót ngay tối nay. Trẫm sẽ ban thưởng cho chim nhiều ân huệ. Nếu không đưa được hoạ mi đến thì cả triều đình sẽ bị phạt giẫm lên bụng sau khi ăn cơm no. Quan Thị lang cúi chào Hoàng thượng ra về. Rồi ngài chạy tới chạy lui, leo lên leo xuống, khắp cả lầu son gác tía, vào khắp các phòng trong hoàng cung, sục sạo mọi ngõ ngách, một nửa triều thần cũng làm như thế, vì chẳng ai muốn chịu tội giẫm lên bụng. Rõ là một cuộc chạy đua loạn xạ để tìm một con chim cả thiên hạ biết tiếng chỉ trừ Hoàng đế và đình thần. Cuối cùng họ vớ được một cô bé thị tì. – Trời ơi! – Cô bé kêu lên – Con chim hoạ mi! Cháu biết! Nó hót hay lắm! Chiều nào mang cơm thừa cho mẹ đang ốm, lúc về mỏi chân đứng nghỉ trong rừng, cháu cũng được nghe nó hót. Những lúc ấy cháu thấy sung sướng đến chảy nước mắt như khi được mẹ cháu ôm hôn vậy. Quan Thị lang nói như reo: – Cháu bé ngoan lắm! Cháu hãy đưa ta đến chỗ hoạ mi đậu, ta sẽ ban cho cháu một chức vị ở trong nhà bếp và cho phép cháu được vào xem Hoàng đế ngự thiện. Cháu cần đi ngay vì tối nay đã phải đem chim đến hót cho Hoàng đế nghe. Cả một nửa triều đình theo con bé thị tì vào rừng nơi có hoạ mi hót. Dọc đường bỗng nghe tiếng bò rống, một thị đồng reo lên: Hoạ mi đấy! Chim gì mà lớn tiếng thế! Hình như tôi đã được nghe ở đâu rồi! Nữ tì nói: – Không phải đâu! Bò rống đấy! Còn phải đi lâu mới tới! Lúc sau lại có tiếng ì uôm của một con ễnh ương ở trong ao. Pháp tăng trong triều cũng đi theo đoàn reo lên: – Hoạ mi đấy! Nghe sao mà thánh thót thế! Chưa bao giờ bần tăng được nghe một giọng chim hót hay như thế! Nữ tì nói: – Không phải đâu! Đấy là ễnh ương! Đi thêm một quãng, thị tì bảo mọi người: – Hãy im lặng mà nghe! Nó đấy! Hoạ mi đấy – Thị tì nói và chỉ một con chim nhỏ lông xám đang đậu trên một cành cây. Quang Thị lang ngạc nhiên: – Hoạ mi đấy à? Ta cứ tưởng nó đẹp kia chứ? Bộ lông nó trông tầm thường quá! Hay là trước mặt đông đủ quần thần nó sợ, tái sắc đi? Thị tì cất tiếng gọi: – Hoạ mi ơi! Hoàng đế muốn nghe hoạ mi hót đấy. – Rất vui lòng! – Hoạ mi trả lời. Và cất tiếng hót thánh thót mê hồn. Quan thị lang khen: – Nghe trong như những tiếng nhạc bằng pha lê. Cái cổ họng nó xinh xắn cứ phập phồng. Thế mà chưa bao giờ được nghe hoạ mi hót cũng tiếc thật. Vào hoàng cung chắc nó sẽ được triều đình và hoàng gia nhiệt liệt hoan nghênh. Tưởng hoàng đế có mặt ở đấy, hoạ mi hỏi: – Tôi có phải hót lần nữa cho thánh thượng nghe không? Quan thị lang nói: – Hoạ mi ơi! Người hãy theo chúng ta về cung hót cho Hoàng đế mê say. – Giọng hót của tôi ở chốn rừng này, dưới vòm cây này, mới là hay nhất. Hoạ mi nói thế, nhưng khi biết Hoàng đế muốn nó đến hót tại hoàng cung, nó cũng vui lòng đi theo. Ở hoàng cung người ta đã chuẩn bị tiếp thật long trọng. Hàng ngàn cây đèn bằng vàng sáng chói trên sân rồng và trên các bệ bằng sứ. Hàng hiên rực rỡ những chậu hoa hiếm thấy, chuông bạc ngân vang mỗi khi gió thoảng nhẹ. Chính giữa đại diện, nơi Hoàng đế ngự có để sẵn một cành cây bằng vàng cho chim đến đậu. Văn võ bá quan tề tựu đông đủ; cả cô thị tì mới được phong chức đầu bếp, cũng được phép đến nấp nghe sau cánh cửa. Các quan đều mặc phẩm phục, chăm chú chiêm ngưỡng con chim màu xám đang líu lo trên cành vàng. Hoạ mi hót hay đến nỗi Hoàng đế xúc động, sụt sùi, nước mắt giàn giụa. Người rất hài lòng, truyền đeo chiếc thẻ bà bằng vàng vào cổ chim để thưởng công. Nhưng hoạ mi khước từ nói: – Như thế này là vinh dự cho tôi lắm rồi! Được thấy những giọt nước mắt của Hoàng đế nhỏ khi nghe tôi hót là một ân huệ lớn đối với tôi. Hoạ mi lại cất tiếng hót êm đềm thấm thía như để tạ ơn. Các bà phu nhân thì thào với nhau: – Không còn gì tuyệt bằng. Có bà còn ngậm tí nước vào miệng, khẽ lấy giọng ro ro trong cổ bắt chước tiếng chim. Trong bụng nghĩ cứ làm như thế giọng các bà sẽ biến thành giọng hoạ mi. Ngay cả các nữ tì, thị vị, những người khách khó tính nhất cũng nhiệt liệt ca ngợi giọng hót của hoạ mi. Như vậy hoạ mi được cả triều đình và hoàng gia ca ngợi. Hoàng đế truyền ban cho hoạ mi một chiếc lồng sơn son treo trong cung, chim được phép ra ngoài mỗi ngày hai lần mỗi đêm một lần. Mỗi khi ra ngoài chim được mười hai quan hầu đi theo, mỗi người nâng một sợi tơ buộc vào chân chim. Kiểu du ngoạn như vậy, hoạ mi chẳng thích thú gì. Cả kinh thành náo nức về con chim. Ai đẻ con cũng muốn đặt tên là hoạ mi, kể cả những đứa có giọng khàn khàn. Một hôm Hoàng đế nhận được một gói gửi đến bên ngài đề hai chữ “Hoạ mi”. Hoàng đế mở gói, bụng nghĩ chắc lại là một quyển sách nói về chim Hoạ mi. Nhưng không phải. Trong gói lại là một con hoạ mi nhân tạo, giống hệt con hoạ mi thật, mình, dát đầy kim cương, ngọc xanh ngọc đỏ. Hễ vặn máy chim lại hót lên như hoạ mi thật, cái đuôi vẫy vẫy óng ánh sợi vàng sợi bạc. Cổ chim hoạ mi đeo một cái vòng, trên khắc dòng chữ: “Tôi là hoạ mi của Hoàng đế Nhật Bản, tôi chưa sánh được với Hoạ mi của hoàng đế Trung Hoa”. Cả triều đình reo lên: – Tuyệt quá! Hoàng đế phong cho người mang hoạ mi giả một chức vị cao và ban thưởng. Triều thần có người bàn cho hai con chim cùng hót, để được nghe một bản song ca của hai con chim hoạ mi tuyệt diệu. Người ta đã thử nhưng không được, vì con chim hoạ mi thật hót một kiểu riêng của nó, còn hoạ mi giả cứ hót theo nhịp ba. Quan chưởng nhạc đã biện hộ cho hoạ mi máy nói rằng nó hót không sai đâu, rất đúng nhịp, tôi cũng thường dạy trên lớp như thế. Nghe quan chưởng nhạc nói vậy, người ta bèn cho chim giả hót một mình. Nó hót rất hay, chẳng kém gì chim thật, lại đẹp nữa, lúc nó hót cứ lóng lánh như nạm kim cương. Nó có thể hót thông luôn một lúc ba mươi lần mà vẫn hay, người nghe không thấy chán, vẫn cứ muốn nghe nữa. Nhưng Hoàng đế truyền để chim thật hót một lúc. Nhưng nhìn trước nhìn sau chẳng thấy chim thật. Thì ra trong lúc mọi người mải mê nghe chim giả hót thì chim thật đã bay về chốn rừng xanh. Hoàng đế sửng sốt: – Thế là thế nào? Quần thần tỏ vẻ tức giận, kết tội chim vong ân bội nghĩa. Cũng có người an ủi như vậy còn là may vì còn giữ được con hay nhất. Thế là chim giả lại phải hót, có một bài mà nó cứ hót đi hót lại đến mấy chục lần. Quan chưởng nhạc hết lời ca tụng chim máy, quan quả quyết nó hơn hẳn chim thật, không chỉ vì nó có bộ lông đẹp mà chính vì tài nghệ của nó. – Muôn tâu bệ hạ – quan chưởng nhạc trình lên Hoàng đế – với con chim thật, chẳng ai biết được nó sẽ hót bài gì; nhưng với con chim máy thì các bài hót được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cứ mở máy các bài sẽ lần lượt hót lên. Cứ việc tháo máy ra, xem các bánh xe sắp đặt thế nào thì hiểu được cách chuyển động của máy và cách phát ra tiếng hót. Mọi người tán thành ý kiến của quan chưởng nhạc. Hoàng đế phán rằng phải để dân chúng được nghe chim máy hót, nên chủ nhật quan Chưởng nhạc đem chim máy cho dân chúng nghe. Dân chúng được nghe hoạ mi hót, ai cũng tấm tắc khen, sau mỗi bài mọi người lại chỉ tay lên trời, lắc đầu kêu “ồ”! Nhưng có một anh thuyền chài nghèo, đã nhiều lần được nghe hoạ mi hót, lại nói như thế này. – Khá hay đấy! Khá giống hoạ mi thật đấy! Nhưng nghe như còn thiếu một cái gì ấy. Vậy là chim thật đã ra khỏi hoàng cung; chim máy được đưa lên địa vị độc tôn. Người ta đặt nó trên một đệm gấm, bên cạnh giường ngự, xung quanh xếp đầy những bội tinh, châu báu, vàng ngọc là những thứ chim được ban thưởng. Nó được hoàng đế phong cho chức tước cao quý. Về ngôi thứ lâm triều, chim được xếp hàng đầu, bên trái, là thứ bậc cao nhất triều đình. Quang chưởng nhạc viết một pho sách mười lăm chương ca tụng chim hoạ mi máy, lời lẽ uyên bác, cao siêu. Ai đọc bộ sách ấy cũng gật gù tỏ ra thông hiểu, để khỏi mang tiếng dốt nát. Sau một năm, Hoàng đế ,triều thần, và cả nước đều thuộc lòng những bài do chim máy hót. Người ta có thể đồng ca với chim. Từ Hoàng đế đến chú bé ngoài phố cũng biết hót. Rõ thật là hay! Nhưng một hôm, chim máy đang hót cho Hoàng đế nghe thì bỗng có tiêng kêu đánh sạch trong bụng chim. Dường như có cái gì bị gẫy, các bánh xe quay loạn xạ nghe xoàn xoạt, rồi chim ngừng hót. Hoàng đế truyền gọi quan ngự y đến bắt mạch chữa cho chim. Nhưng quan ngự y từ chối vì không thuộc chuyên môn của người. Triều đình phải cho gọi một thợ chữa đồng hồ đến. Anh thợ đồng hồ tháo tung cỗ máy xem xét nói rằng các bánh xe mòn nhiều, không có đồ thay; chỉ có thể lắp lại dùng tạm, mỗi năm chỉ được cho chim hót một lần. Nghe tin thần dân cả nước bàng hoàng. Tiếng chim máy hót bây giờ nghe rèn rẹt, nhưng quan chưởng nhạc vẫn khăng khăng rằng tiếng chim máy hót vẫn du dương như trước. Năm năm sau, nhân dân trong nước nghe một tin dữ. Hoàng đế muôn vàn kính yêu của họ lâm bệnh nặng, không cứu chữa được. Đình thần đã chọn người kế vị. Dân chúng nhớn nhác đến dinh quan thị lang hỏi thăm tin tức. Hoàng đế tái ngắt, giá lạnh trong long sàng. Văn võ bá quan tưởng người đã băng hà rối rít, xun xoe quanh vị vua mới. Tróng khi đó thị vị và nữ tì vui chơi, thoả thích chuyện gẫu và uống nước chè. Hoàng đế đáng thương đang hấp hối, người chỉ còn thoi thóp thở. Cảm thấy có vật gì đè lên ngực, người mở mắt và nhìn thấy thần chết đang cười với người. Thần chết đã lột mũ miện của người, một tay cầm xạ kích một tay cầm hoàng kỳ. Từ các nếp màn che quanh long sàng ló ra những cái đầu lâu kỳ quái; có những cái trông gớm ghiếc, lại có những cái trông nhân từ. Đó là công đức và tội lỗi của Hoàng đế hiện về trong khi thần chết đè nặng lên trái tim người. – Còn nhớ không? Nhà vua còn nhớ không? Cái đầu lâu lần lượt hỏi tội nhà vua. Chúng kể ra không biết bao nhiêu là tội, khiến nhà vua toát hết cả mồ hôi và kêu lên: – Nhưng ta đâu có biết những chuyện ấy? Rồi ngài hô: – Cử nhạc lên! Khua trống cái lên! Ta không muốn nghe những lời ma quái nữa! Mặt ma vẫn cứ trơ trơ, còn thần chết thì vẫn lắc lư cái đầu. Hoàng đế lại thét lên: – Cử nhạc! Cử nhạc mau! Chim vàng thân yêu! Hãy hót đi! Hót lên! Ta sẽ ban thưởng cho người vàng bạc, châu báu và chiếc bài vàng. Hót lên! Hót lên đi! Nhưng chẳng có ai vặn máy, nên chim cứ im lìm. Còn thần chết thì vẫn giương đôi mắt thao láo, trống hốc, nhìn chằm chằm Hoàng đế. Giữa lúc đó, từ ngoài cửa sổ nổi lên tiếng hót tuyệt vời. Chim hoạ mi bé nhỏ đã từ rừng xanh bay về đậu trên cành cây ngoài vườn. Nghe tin Hoàng đế ốm nặng, chim đã bay về mang lại cho người nguồn sinh lực bằng tiếng hót của mình. Tiếng hót của hoạ mi vang lên, bóng ma tan dần, máu lại lưu thông trong huyết quản của nhà vua. Thần chết cũng phải lặng đi trước tiếng hót của hoạ mi, rồi lại khuyến khích: – Cứ hót đi! Hoạ mi! Cứ hót đi! – Được! nhưng phải trao lại kiếm vàng và mũ miện cho Hoàng đế! Sau mỗi bài hót của chim, thần chết lại trao trả một bảo vật. Chim tiếp tục hót, ca ngợi cảnh thanh bình nơi nghĩa trang đầy hoa thơm, cỏ lạ. Thần chết không cầm nỗi lòng mong muốn trở lại khu vườn của mình, đã hoá thành một đám mấy trắng bay qua cửa sổ và biến mất. Hoàng đế reo lên: – Cảm ơn chim! Cảm ơn chim yêu quí! Ta đã nhận ra hoạ mi rồi. Ta đã vô tình để chim ra khỏi hoàng cung, vậy mà chim vẫn quay về, lại giúp ta xua đuổi tà ma, cứu ta ra khỏi tay thần chết. Ơn ấy không bao giờ ta quên. Hoạ mi đáp: – Nhà vua ban thưởng cho chim nhiều rồi. Những giọt nước mắt, nhà vua nhỏ lần đầu tiên nghe chim hót, chim không bao giờ quên cảnh tượng ấy. Đối với một ca sĩ, không có vàng bạc châu báu nào quý giá bằng. Bây giờ xin Hoàng đế yên nghỉ để hoạ mi hót cho người nghe cho mau bình phục. Rồi hoạ mi lại hót, hoàng đế lại thiếp đi trong giấc ngủ hồi sinh êm đềm. Lúc ánh bình minh chiếu qua cửa sổ rọi tới long sàng, nhà vua tỉnh giấc trong người sảng khoái vô cùng. Chung quanh chẳng có ai đến hầu, vì họ yên trí vô nhà vua đã băng hà. Duy chỉ có hoạ mi vẫn một mình líu lo bên cạnh Hoàng đế. Hoàng đế bảo chim: – Từ nay hoa mi luôn ở bên ta để hót cho ta nghe, còn con chi giả ta sẽ đập tan thành trăm mảnh. Hoạ mi vội can: – Xin nhà vua đừng làm như vậy. Chim máy đã làm hết sức của nó, nên giữ nó lại. Còn tôi, tôi không quen sống trong hoàng cung. Xin nhà vua cho phép tôi về rừng, chiều chiều tôi sẽ bay lại đây, đậu trên cành cây, trước cửa sổ này để hót cho nhà vua nghe. Chim sẽ hót lên cuộc đời của những kẻ sung sướng nhưng cuộc đời cũng như cuộc đời của những người đau khổ. Chim sẽ hót lên những điều tốt cũng như những điều xấu người ta chung quanh nhà vua. Tiếng hót của hoạ mi bé nhỏ này sẽ lọt tới những người dân chài nghèo khổ, của những nông dân bần hàn, đến tận những nơi xa hoàng đế và triều đình. Hoạ mi kính trọng tấm lòng nhà vua hơn cả ngai vàng, mặc dầu ngai vàng là biểu hiện thiêng liêng. Chim sẽ đến, sẽ hót, nhưng chỉ xin nhà vua một điều: – Chim muốn xin gì trẫm cũng ban – nhà vua nói và đứng dậy ghi chặt thanh kiếm nạm ngọc quí vào ngực. – Chim chỉ xin bệ hạ một điều là đừng nói cho bất cứ ai biết rằng bệ hạ có một con chim nhỏ đã tâu lên cho bệ hạ biết tất cả mọi điều. Như thế mọi việc sẽ êm đẹp. Nói rồi chim cất cánh bay đi. Lúc ấy triều thần bước vào. Họ yên trí hoàng đế đã băng hà. Nhưng mọi người sửng sốt thấy nhà vua đứng dậy quay về phía họ mà phán rằng: – Chào các ngươi!
Truyện: Trạm Lạm Huy Chương
Bầu trời tối dần, ở xa xa có hồ ly tuyết tò mò nhìn doanh trại. Loại ma thú này không có tính công kích mạnh, có nhiều họ hàng của nó thích sống ở gần thành phố, thậm chí có một số ma hồ sống trong thành phố.
Loại hồ ly nhỏ này bắt chuột, ăn rác của con người, cho nên có thể sống chung với con người. Ở phía nam còn có một số loài hồ ly bắt rắn trùng, không khác gì loài mèo thuần dưỡng.
Sarin ngồi trên khối đá lớn, nhìn những động vật nhỏ chạy xung quanh, tâm tình tốt hơn một chút. Mặc kệ xảy ra chuyện gì, căn cứ thành phố phải được mở rộng.
Chờ xây xong thành phố này, có tháp ma pháp hình thành mạng lưới phòng ngự, dù là Huyết kỵ sĩ cũng không thể làm gì được thành phố này. Đến lúc đó bắt một ít hồ ly tuyết nuôi thả trong thành phố, mặc kệ thành phố hoàn mỹ cỡ nào, sẽ luôn có những nơi loài người không chăm chút được, trùng rắn chuột kiến luôn phiền phức. Có loài động vật này, thành phố sẽ sạch sẽ hơn nhiều.
Bên trong doanh trại lâm thời, đám hải tặc đốt lửa trại. Hỗn Loạn Chiểu Trạch không có nhiều thứ khác, chứ còn cành khô héo úa có cả đống, rải bột phấn ma pháp giá rẻ lên là có thể đốt thật lâu. Sarin không ngăn cản hành vi này, hắn tới Hỗn Loạn Chiểu Trạch không phải vì lén lút tiến vào di tích, hắn vốn là vì muốn Giáo đình chú ý.
Nếu Sarin thật sự muốn lén tiến vào di tích, căn bản không cần dẫn nhiều người đi ra như vậy. Hơn trăm hải tặc cưỡi chiến mã khô lâu, trên đường rất rêu rao, người hơi chú ý một chút là có thể biết được có đội ngũ như thế tiến vào Hỗn Loạn Chiểu Trạch.
Chẳng qua lần trước Sarin xử tử mười mấy hải tặc, làm cho đám người còn lại thu liễm hơn nhiều, không còn ai dám say sưa hát múa nữa. Nhìn từ xa, doanh trại coi như im lặng chinh tề.
Sarin nhớ lại tình hình khi chạy vào Hỗn Loạn Chiểu Trạch lúc trước, Nerys cõng mình, một đường chạy như điên. Khi đó hắn sợ Bạch chấp sự Picasso đổi ý, lúc đó hắn không có một chút lực lượng chống cự. Lúc này mới mấy năm? Mình đã có thể nghênh ngang trở về.
Nếu lần này gặp phải Thần thuật sư cấp bậc như Picasso, Sarin có nắm chắc thủ thắng. Chiến đấu với Zola làm cho hắn thành lập được lòng tin. Ưu thế của Ma pháp sư ở chỗ bọn họ có rất nhiều biện pháp chiến thắng kẻ địch.
Pháp sư chỉ biết ném quả cầu lửa không phải pháp sư giỏi, lời này có đạo lý riêng. Ma pháp khác nhau một khi tổ hợp lại, có thể hình thành ngàn vạn phương thức chiến đấu biến hóa liên tục.
Số lượng ma pháp mà Sarin biết không coi là nhiều, nhưng mỗi lần chiến đấu gần như đều dùng biện pháp không giống. Căn cứ kẻ địch khác nhau, hắn sẽ dùng kỹ xảo chiến đấu khác biệt. Đây là ưu thế của Ma pháp sư, ít có người hiểu được. Phần lớn người sẽ cho rằng lực lượng của Ma pháp sư chỉ là thao túng nguyên tố, trên thực tế trí tuệ của Ma pháp sư mới là thứ càng quan trọng hơn.
Người không đủ thông mình, vĩnh viễn không thể trở thành Ma pháp sư giỏi.
Trên vùng tuyết ở xa xa, một con sói tuyết cô độc chậm rãi mò tới gần, nhìn thấy doanh trại đang đứng sừng sững hơn trăm con chiến mã khô lâu, sói tuyết do dự rồi bỏ đi. Ma thú luôn mẫn cảm với nguy hiểm, doanh trại này không phải là đối tượng mà sói tuyết có thể tấn công được.
Ầm! Ầm! Ầm!
Ở nơi xa hơn, không biết có ma thú to lớn nào đang ngủ say chợt thức dậy, nhanh chóng di chuyển đến đây. Có lẽ có ma thú khác quấy rầy giấc ngủ của nó, có lẽ nó đói đến không thể tiếp tục ngủ, phải đứng dậy kiếm ăn.
Đây là Hỗn Loạn Chiểu Trạch, mỗi một loài muốn sinh tồn thì phải tranh giành, không ai không thứ gì có thể bình yên qua cả đời.
– Hả?
Sarin bỗng ngẩng đầu, trên trời cao có một cái chấm đen xẹt qua, hắn nhanh tay lấy ra kính viễn vọng luyện kim, ngửa đầu quan sát. Bay qua trên cao, là một con chim ưng có hai đầu.
Sarin trở nên khẩn trương, chim ưng hai đầu? Có Hắc ma pháp sư ở Hỗn Loạn Chiểu Trạch? Lần này hắn ngồi không yên, nhảy khỏi tảng đá, nhanh chóng trở lại doanh trại.
Aini tu luyện trong lều trại, Daniel giúp hắn giữ cửa. Daniel cam lòng tự nguyện giúp đỡ Aini, đương nhiên là vì Aini cũng là Vong linh pháp sư, cấp bậc còn cao hơn hắn, hắn có thể học được càng nhiều thứ hơn. Thấy thần sắc âm trầm của Sarin, Aini liền biết xảy ra chuyện. Sarin rất ít khi lộ ra biểu tình không xong, trừ khi chuyện này khiến hắn hoang mang.
– Sao vậy?
Aini thu hồi tử linh hỏa diễm, bây giờ hắn cùng Sarin ngòi chung một thuyền, không chỉ đơn giản là bằng hữu.
– Ta vừa phát hiện ra chim ưng hai đầu!
– Cái gì!
Aini còn ngỡ là hắn nghe lầm, hắn gặp phải nguy cơ lớn nhất cả đời này chính là bị Hắc ma pháp sư vây khốn ở tòa thành Nam tước. Hắc ma pháp sư còn đáng ghét hơn cả chuột, bọn họ có năng lực mở rộng đàn nhanh như chuột.
Daniel phản ứng nhỏ hơn nhiều, hắn không tự mình trải qua, đương nhiên không biết sự đáng sợ của Hắc ma pháp sư.
Sarin cùng Aini hồi tưởng lại Kỵ sĩ không đầu cùng Căm hận long thú, cảm giác được khi thứ đó hình thành số lượng quy mô, đội ngũ của hắn sẽ gặp phải tai họa ngập đầu.
Căm hận long thú hùng mạnh ngay cả tường thành cũng có thể đụng vỡ lỗ thủng, còn Kỵ sĩ không đầu là Kiếm Sư không có cảm giác đau đớn sợ hãi. So sánh lại, Huyết kỵ sĩ coi như dễ đối phó, bởi vì Huyết kỵ sĩ vẫn có cảm giác đau, ngươi chém một kiếm, không còn tay chân, Huyết kỵ sĩ sẽ không còn uy hiếp.
Kỵ sĩ không đầu thì khác, bản thân Kỵ sĩ không đầu đã không có đầu, không dùng ma pháp, rất khó giết chết hoàn toàn. Chỉ cần Kỵ sĩ không đầu còn tồn tại tứ chi là có thể tiếp tục tấn công kẻ địch, hơn nữa bây giờ là ở trong Hỗn Loạn Chiểu Trạch, căn bản không có tòa thành làm chỗ dựa, muốn lấy ít thắng nhiều là rất khó.
Sarin lấy ra bản đồ đơn sơ, vẽ một đường lên đó, nói:
– Chim ưng hai đầu bay từ hướng này.
– Hình như trùng với mục tiêu?
Aini cau mày, đưa ra phán đoán rất tồi tệ.
– Nếu Hắc ma pháp sư trốn trong Hỗn Loạn Chiểu Trạch, vậy thì rắc rõi to.
Sarin nhìn bản đồ, ngón tay không ngừng vẽ lên bản đồ. Tấm bản đồ này là hắn
vẽ ra dựa theo trí nhớ, lúc trước John Cera cho hắn xem thoáng qua, hắn liền ghi nhớ bản đồ của John Cera. Bản đồ này chỉ đánh dấu một phần mười bộ phận của Hỗn Loạn Chiểu Trạch, Sarin bổ sung một ít, không có đánh dấu vị trí thần điện.
Hỗn Loạn Chiểu Trạch có diện tích rất lớn, nhưng mà muốn xuyên qua an toàn, con đường mà Sarin lựa chọn gần như là duy nhất. Cái gọi là an toàn ở chỗ này cũng chỉ là an toàn tương đối, bản thân Sarin đi qua, địa hình đơn giản, không có ma thú quá mạnh. Loại Khai Sơn Quái không có lãnh địa cụ thể, sẽ không xuất hiện thường xuyên.
Bây giờ chim ưng hai đầu của Hắc ma pháp sư xuất hiện, địa điểm bị Hắc ma pháp sư chiếm cứ cũng sẽ không quá xa. Mặc kệ ở nơi nào, phạm vi hoạt động của Hắc ma pháp sư đều vừa lúc chặn ngang con đường của Sarin.
Sarin mua trấn Deep Forest là vì mở ra con đường bí mật trong Hỗn Loạn Chiểu Trạch, có thể nhanh chóng đi tới Scotzia. Nếu Hắc ma pháp sư chiếm cứ bên trong Hỗn Loạn Chiểu Trạch, trấn Deep Forest ngược lại trở thành tiền phương, có lẽ tương lai sẽ phải đối mặt với sự công kích dữ dội của Hắc ma pháp sư.
Khí hậu Hỗn Loạn Chiểu Trạch tồi tệ, sinh tồn khó khăn, nhưng mà bản thân Hắc ma pháp sư gần như là sinh vật vong linh, căn bản không để ý tới vấn đề khí
– Lo trước mắt đã.
Sarin suy nghĩ, nói với Daniel:
– Ngươi thu vũ khí của đám hải tặc lên, chúng ta luyện chế lại vũ khí mới khởi hành. Vũ khí của họ bây giờ không thế đối phó được Kỵ sĩ không đầu.
Daniel gật đầu đi rồi, Aini nói:
– Có cần để cho ba Quân vương hỗ trợ không?
– Bọn họ chưa chắc sẽ giúp, tự mình xử lý trước đã. Nếu nơi này là đại bản doanh của Hắc ma pháp sư, ba tên Quân vương cũng chỉ có thể mang theo chúng ta bỏ chạy. Cậu còn nhớ năm đó không? Hắc ma pháp sư dường như biết sống lại Ma thần gì đó, cho dù đó không phải là Thần linh, sức chiến đấu cũng nằm ngoài khả năng chống cự của chúng ta.
Hai người đều không nói ra ý muốn quay đầu rời đi, thật vất vả khiến ba tên Quân vương ký kết một cái khế ước có cạm bẫy, chuyện lần này nói sao cũng phải hoàn thành. Mặc kệ là Giáo đình ở đây, hay là đại bản doanh Hắc ma pháp sư ở chỗ này, ba tên Quân vương cũng không thể tránh khỏi vấn đề là bọn họ phải thực hiện lời hứa trên khế ước.
Sức chiến đấu của đám hải tặc này không kém binh lính Nam tước trước kia, cũng có mấy Kiếm Sư, phần lớn còn lại là kiếm sĩ tiêu chuẩn. Nhưng mà chỉ có một trăm hải tặc, lại không có tòa thành làm chỗ dựa, thật sự gặp phải hắc khôi lỗi số lượng lớn, trừ Ma pháp sư như Sarin cùng mấy Kiếm Thánh Zola mới thu phục, đám hải tặc không có khả năng sống sót cao.
Hiện giờ Sarin chỉ có thể luyện chế lại vũ khí chuyên đối phó binh chủng chủ yếu của Hắc ma pháp sư, khiến đám hải tặc nâng cao tỷ lệ sinh tồn. Động tác của hắc khôi lỗi không linh hoạt lắm, dùng binh khí dài chiến đấu sẽ giảm bớt được thương vong không cần thiết. Chỉ cần mấy binh lính dùng binh khí dài đâm từ xa là có thể giải quyết được một con hắc khôi lỗi, mấu chốt vẫn là phối hợp.
Cấp bậc như Kỵ sĩ không đầu cần phải có vũ khí hạng nặng đối phó, cũng may đám hải tặc đều học tập một ít kiếm thuật thô sơ, tuy rằng kiếm khí của bản thân không mạnh, sử dụng vũ khí hạng nặng trong thời gian ngắn vẫn rất nhẹ nhàng.
Vũ khí của hải tặc bị thu gom, đưa tới ngoài lều trại của Sarin.
Thương gỗ quá ngắn, Sarin cùng Aini phải kéo dài gấp đôi cán thương. Cũng may không gian Ác Ma Chỉ Hoàn của Sarin bây giờ lớn hơn nhiều, lần này ra ngoài chuẩn bị trang bị cho hải tặc coi như đủ dùng, cán thương gỗ của hải tặc chỉ dài không đến ba thước, đây là bố trí cho kỵ binh.
Từ khi giai tầng kỵ sĩ xuống dốc, phương thức chiến đấu của kỵ sĩ cũng xuống dốc theo, đặc biệt là vũ khí dài, chỉ còn dùng ở bộ binh. Thương kỵ không còn loại dài bảy tám thước, trừ khi là kỵ sĩ cưỡi ma thú cỡ lớn. Sarin mới thu bốn kỵ sĩ ma thú đều không dùng binh khí quá dài, ma thú của bọn họ không lớn hơn ngựa chiến bao nhiêu, còn là ma thú ăn tạp.
Bây giờ Sarin có chút hối hận không dẫn Nerys tới đây, nếu có Nerys ở đây, hai con rõi cấu trang kia là vũ khí mạnh mẽ đối phó với hắc khôi lỗi. Nếu Lex ở đây thì tốt rồi, bên người Lex không thiếu con rõi chiến đấu, con rõi chiến đấu linh hoạt hơn hắc khôi lỗi, sức chiến đấu cũng mạnh hơn.
Bây giờ chỉ có thể dựa vào chính mình, Sarin cuộn tay áo lên giống như thợ rèn, cầm lấy một cây thương gỗ, xem xét tỉ mỉ.
– Ta có thể giúp được gì không?
Luyện kim thuật của Daniel không được, nhưng hắn không muốn nhàn rỗi, Sarin cùng Aini đều bắt đầu giúp hải tặc luyện chế lại vũ khí, vũ khí của hơn trăm tên hải tặc sẽ tốn không ít thời gian.
– Ngươi biết luyện chế dược phẩm không?
– Ta có dược phẩm hỗn loạn, có thể dùng để đối phó con rõi.
Daniel không phải ngu ngốc, câu trả lời hắn làm Sarin rất hài lòng.
– Vậy bôi dược phẩm lên vũ khí của binh lính, làm ngay.
Khi Sarin nói chuyện với Aini, đã nối dài hai cây thương gỗ, bắt đầu thí nghiệm cường độ. Đám hải tặc cũng sẽ luyện tập thương thuật, bởi vì khi cướp bóc phải nhảy lên thuyền kẻ địch, vũ khí tốt nhất là trường thương. Ngẫu nhiên có hải tặc luyện tập ném lao, khí hậu trên biển ẩm ướt, bảo trì cung tên rất rắc rõi, nỏ luyện kim lại rất đắt đỏ, cũng vẫn phải bảo trì, mua nó sẽ mất nhiều hơn được.
Bôi dược phẩm ma pháp lên vũ khí còn rắc rõi hơn cả bôi thuốc độc, dược phẩm ma pháp có tính bốc hơi mạnh, muốn khiến dược phẩm ma pháp duy trì trên vũ khí đủ lâu thì chỉ có Ma pháp sư mới làm được. Binh lính bình thường dù có lấy được dược phẩm ma pháp cũng chỉ là uổng công.
Dược phẩm hỗn loạn nhắm vào thuật triệu hồi, chỉ là đối phó con rõi cũng được. Cho dù con rõi không phải Ma pháp sư chỉ huy, cũng cần vận hành năng lượng theo quy luật mới có thể tự động chiến đấu, bị dược phẩm hỗn loạn tổn thương, tự chủ hoàn toàn mất đi khống chế hành động, không chỉ có thể tấn công kẻ địch, còn có thể tấn công đồng bọn.
Loại dược phẩm ma pháp này là thứ Vong linh pháp sư am hiểu, pháp sư nguyên tố mà chế tạo sẽ có độ khó tương đương với dược phẩm cao cấp.
Thương gỗ được luyện chế lại, trở thành trường thương dài hơn năm thước, càng thích hợp cho bộ binh sử dụng, kỵ binh sử dụng vũ khí dài như thế thì phải trải qua huấn luyện đặc thù mới có thể nắm giữ. Chẳng qua Sarin vẽ ma văn lên cán thương, khiến trọng lượng của thương gỗ không thay đổi nhiều, chỉ cần hải tặc nắm giữ trọng tâm của vũ khí là sẽ không xuất hiện tình huống không thể khống
Đối phó Kỵ sĩ không đầu, vũ khí tốt nhất là rìu hai lưỡi, kiếm nặng hai tay, Bạo ma lưu tinh chùy… Rìu hai lưỡi thông qua quán tính chém giáp nặng kim loại; kiếm nặng hai tay là thứ mà Kiếm Sư yêu nhất, có thể lợi dụng kiếm khí hợp lý; Bạo ma lưu tinh chùy là vũ khí ma pháp hiếm thấy hơn, ngoại trừ trọng kích, còn sinh ra hiệu quả xé rách.
Trong đội ngũ của Sarin rất ít Kiếm Sư, hắn vì đám hải tặc mới luyện chế lại ra rìu hai lưỡi. Một con rõi cấu trang của Sarin sử dụng rìu hai lưỡi, loại vũ khí này rất nặng, vô cùng sắc bén, cho dù là áo giáp ma pháp cũng khó phòng ngự. Rắc rõi duy nhất là loại vũ khí này rất nặng, mang theo sẽ lãng phí rất nhiều thể lực.
May mà đội ngũ của Sarin có chiến mã khô lâu, bình thường chỉ cần treo rìu hai lưỡi lên ngựa là được.
Luyện chế vũ khí còn dễ, kim loại cùng cây gỗ tương đối dễ luyện chế, Sarin còn muốn luyện chế lại bao tay của đám hải tặc.
Vốn hải tặc sử dụng vũ khí là bội kiếm, trường đao. Nếusử dụng rìu hai mặt, bao tay cần phải chịu được sức ma sát mạnh, mới không khiến vũ khí tuột tay.
Lúc này, chỗ tốt có tùy tùng liền thể hiện ra. Zola cùng bốn kiếm sĩ ma thú bảo vệ lều trại của Sarin, hải tặc không ngừng ra vào phân phát ra vũ khí luyện chế xong. Có bốn Kiếm Thánh bảo hộ, Sarin cùng Aini không cần lo bị đánh lén.
Thông thường Ma pháp sư đều sẽ chọn một nơi an toàn mới tiến hành thực nghiệm luyện kim, dù sao khi luyện kim, Ma pháp sư sẽ tập trung tinh thần lực mức độ cao, cảm giác bên ngoài sẽ giảm đi.
Đối với Ma pháp sư có thói quen nắm giữ mọi thứ, cảm giác giảm đi, nguy hiểm sẽ tăng mạnh. Lúc này, pháp sư càng dễ bị tấn công hơn là kiếm sĩ.
Zola nhìn từng kiện vũ khí bị đưa ra, nói với bốn kiếm sĩ ma thú:
– Các ngươi cũng nói với chủ công luyện chế một món vũ khí đi, ta thấy thế này hẳn là chủ công gặp chuyện rắc rõi. Ngươi không thấy ba vị pháp sư đều rất khẩn trương hay sao?
Bốn kiếm sĩ ma thú nhìn nhau, bọn họ còn không có thói quen coi Zola là đồng bọn, dù sao đuổi giết mấy tháng, muốn bỏ qua chuyện này giống như Zola, bọn họ còn chưa làm được. Bốn người bọn họ vốn là cô nhi, cũng không tuyên thệ trung thành với ai, hơn nữa gặp phải nguy hiểm, kiếm sĩ ma thú không thể lùi bước.
Đối với loại chế độ này của Vân Lưu, Zola cười nhạt. Muốn người ta liều mạng thì phải cho chỗ tốt, vận mệnh của kiếm sĩ ma thú không tốt lắm, địa vị chỉ hơi cao hơn bình dân, nhưng mà còn không bằng cả Nam tước cấp ba
– Chúng ta mới thăng cấp Kiếm Thánh sơ cấp, còn cần một thời gian thích ứng với vũ khí, thậm chí bản thân cũng không biết cần vũ khí đặc thù gì, cho nên…
Một tên kiếm sĩ ma thú do dự nói ra suy nghĩ của mình. Theo bọn họ thấy, để cho Sarin luyện chế vũ khí là chuyện rất rắc rõi, bọn họ cần vũ khí không phải sản phẩm làm ẩu. Một món vũ khí luyện kim tốt sẽ đi theo Kiếm Thánh cả đời, cho nên bọn họ định hoàn toàn ổn định kỹ năng mới nhờ Sarin chế tạo cho bọn họ một kiện binh khí vừa tay.
– Hắc, các ngươi bị Jupiter làm choáng váng rồi hả?
Zola không cho là đúng nói:
– Không bao lâu nữa các ngươi sẽ đi liều mạng, sống sót, chủ công sẽ cho đãi ngộ tốt hơn, nói không chừng sau này sẽ có ruộng có đất, lấy hai cái lão bà, sinh một đống đứa nhỏ. Đứa nhỏ của các ngươi còn có thể được chủ công phụ trách mời thầy dạy dỗ, các ngươi như hiện giờ rõ ràng là không thật lòng nương tựa.
Bốn tên kiếm sĩ ma thú hoảng hốt, bọn họ không quá hiểu được nguy cơ bên ngoài, chỉ biết đi theo Sarin, bình thường là phải đi chiến đấu. Nhưng mà bọn họ còn không biết tùy tùng còn có được đãi ngộ như vậy, nếu là thế, thì bốn người quả thật không nên khách khí với Sarin. Bảo trì khoảng cách quá xa, đúng như Zola nói, đó là trong lòng còn chưa hoàn toàn coi Sarin là chủ công.
– Thật là thế sao?
– Đương nhiên, ta đoán, lần này đại nhân sẽ chủ động luyện chế cho các ngươi một món vũ khí, nhưng lần sau các ngươi còn không nói ra yêu cầu với chủ công, tình huống sẽ không hay. Các ngươi biết không, một Ma pháp sư có thể có hơn một trăm tùy tùng. Các ngươi là may mắn, vốn không trở về được Vân Lưu, có thể được Đại ma pháp sư thu nhận, người khác khó mà có cơ hội này, các ngươi phải nắm cho chắc.
Zola tiếp tục bậy bạ, chẳng qua có điều hắn nói đúng, thân là tùy tùng, nếu phải bảo vệ an toàn của chủ công, vậy không thể khách khí trong việc nâng cao sức chiến đấu.
Bốn tên kiếm sĩ ma thú vì tỏ vẻ trung thành, bẻ gãy bội kiếm trước kia, bây giờ chỉ có thể dựa vào trang bị kỵ binh của bọn họ để chiến đấu, lúc đi bộ thì không còn binh khí tiện tay nữa.
– Zola tiên sinh, cảm tạ ngài chỉ điểm.
Một kiếm sĩ ma thú cảm tạ từ đáy lòng.
– về sau gọi tên của ta đi, ở Tần nhân thì tiên sinh là để gọi Ma pháp sư, các ngươi cẩn thận kẻo gây ra chuyện.
Bản thân Zola vốn là giáo sư kiếm thuật cung đình, sẽ có mấy đệ tử gọi hắn như thế. Nhưng mà hắn hiểu Tần nhân có những quy củ còn nghiêm khắc hơn cả Vân Lưu, bốn người này lén gọi như vậy còn không sao, bị Ma pháp sư khác nghe được sẽ rước tới rắc rõi không cần thiết.
-Rõ.
Các kiếm sĩ ma thú không nói nữa, bắt đầu trầm tư suy nghĩ vũ khí thích hợp với mình. Trường kiếm đương nhiên là lựa chọn đơn giản nhất, chỉ là bọn họ học tập kỹ thuật chiến đấu rất phong phú, trường kiếm chưa chắc là thích hợp nhất. Lúc ở Vân Lưu, bởi vì nguyên nhân chức vụ mà bọn họ ở cung đình chỉ có thể đeo bội kiếm, không được phân phát vũ khí đặc thù.
Năm người bảo vệ ngoài lều trại, bọn họ đã là Kiếm Thánh, thời tiết rét lạnh cũng không ảnh hưởng gì. Ở trạng thái không chiến đấu, kiếm khí cũng giống như ma pháp của Ma pháp sư, có thể cung cấp hoàn cảnh đủ thoải mái cho thân thể.
Mãi cho đến đêm, trong lều trại mới truyền ra tiếng gọi của Sarin:
– Năm người các ngươi vào đi.
Zola dẫn bốn kiếm sĩ ma thú đi vào lều trại, lều trại của Sarin rất lớn, hiện giờ một đám vũ khí cuối cùng của nhóm hải tặc đã dọn đi, chỉ có ba người Ma pháp sư ở trong, có vẻ khá trống trải.
– Ngồi đi, cùng ăn chung.
Sarin lấy ra thức ăn do chính hắn chuẩn bị từ Ác Ma Chỉ Hoàn, bày ra trên vải dầu trải sẵn. Bây giờ hắn còn chưa phải pháp sư cấp sáu, không gian trong Ác Ma Chỉ Hoàn vẫn có hạn, hắn sẽ không mang theo đồ vật như bàn ghế. Trừ khi trang bị không gian của hắn có thể giống như Thần La Giới của Lex, Sarin mới có thể cân nhắc mang theo nhiều loại đồ dùng để cuộc sống thoải mái hơn.
Zola cầm lên ăn ngay, bốn kiếm sĩ ma thú có chút không yên, bọn họ bị Zola nhắc nhở qua, đã nghĩ xong cần loại vũ khí gì. Chỉ là bây giờ đang dùng bữa, bọn họ cũng không tiện lên tiếng, trong lòng đang ngứa ngáy.
Sarin ăn xong bánh mỳ của mình, hắn dùng Thanh Khiết Thuật dọn dẹp xong, nói với đám người Zola:
– Zola nói đúng, chúng ta có thể sẽ gặp rắc rõi. Ta đã nghĩ sẵn vũ khí của Zola. lát nữa bốn người các ngươi biểu diễn phương thức chiến đấu mạnh nhất của mình cho ta xem, ta sẽ giúp các ngươi thiết kế ra một loại vũ khí.
– Đại nhân, là rắc rõi gì?
Zola chủ động hỏi, tính tình của hắn vốn rất dễ thích ứng trong mọi hoàn cảnh, với Sarin cũng vậy, với Jupiter Đại đế cũng thế, ở trong lòng hắn không có gì khác nhau. Nếu chủ công không thể thu giữ hắn, hắn liền ra đi, cho nên Zola không gò bó như bốn kiếm sĩ ma thú.
– ừ, chúng ta có thể sẽ gặp phải Hắc ma pháp sư.
Năm người đều không quen thuộc ma pháp, mặc dù có nghe truyền thuyết về hắc ma pháp, nhưng dù sao đó là chuyện ngàn năm trước. Mấy năm trước Phoenix xuất hiện Hắc ma pháp sư, nhưng mà nhanh chóng biến mất, cũng không khiến người ta cảnh giác. Chuyện này chỉ bí truyền trong hoàng thất các đế quốc, nhưng cũng không gây ra gợn sóng gì.
– Ta từng chiến đấu với con rõi của Hắc ma pháp sư, rất khó chơi.
Sarin thấy mấy người dường như không quá khẩn trương, tiếp tục nói:
– Hắc ma pháp sư có thể chế tạo con rõi số lượng lớn, hơn nữa lần trước còn xuất hiện hắc khôi lỗi, căn bản là người rơm biến ra. Các ngươi nghĩ thử xem, dù là sức chiến đấu của hắc khôi lỗi không mạnh, nhưng có được số lượng khổng lồ. Nếu xuất hiện một vạn con hắc khôi lỗi, các ngươi có thể cam đoan thắng lợi hay sao?
– Nếu chúng ta có một vạn binh lính, thì có thể.
Zola cười hì hì trả lời.
– Còn cần ngươi nói? Nhưng chúng ta chỉ có hơn một trăm binh lính, số lượng hắc khôi lỗi có thể trên mười vạn. Mặt khác, sức chiến đấu của Kỵ sĩ không đầu vượt xa hắc khôi lỗi, tương đương với tiêu chuẩn Kiếm Sư. Các ngươi có thể đồng thời đối phó bao nhiêu Kiếm Sư?
Lúc này Zola thế này mới nhíu mày, nếu Kiếm Thánh độc đấu với Kiếm Sư, nhắm mắt lại cũng có thể thủ thắng. Nhưng mà khi loạn chiến, mười mấy cái Kiếm Sư cũng sẽ tạo thành uy hiếp tới Kiếm Thánh.
– Đại nhân, là ta khinh địch.
Zola thẳng thắn thừa nhận sai lầm. Người như hắn, trừ sinh hoạt cá nhân có chút lung tung, vẫn rất nghiêm túc với nghề nghiệp của mình.
– Ngàn năm trước kia, Hắc ma pháp sư có thể gây ra sóng gió lớn như thế là không phải không có nguyên nhân. Hiện giờ chúng ta không có thành phố làm chỗ dựa, ở Hỗn Loạn Chiểu Trạch, lực lượng của bọn họ sẽ phát huy tới mức mạnh nhất. Ta không biết sẽ có xuất hiện con rõi khác hay không, nhưng mà nhất định là có Căm hận long thú. Nếu chúng ta muốn thành lập trận địa đơn giản, đó là chuyện không có ý nghĩa. Nếu Kỵ sĩ không đầu trốn sau Căm hận long thú xung phong lên, chúng ta có thêm hai cái cương nỏ cũng không cản nổi.
– Căm hận long thú?
Năm vị Kiếm Thánh cũng không biết đó là cái gì.
– Đó là loại vũ khí kinh khủng nhất trên đời, lời ta nói, là lời của kẻ địch nói về Căm hận long thú.
Sarin hồi tưởng lại trước kia, phát hiện Căm hận long thú ở con đường xương trắng, cuối cùng cũng không biết Căm hận long thú này xuất hiện ở chỗ nào, rất là quỷ dị. Bây giờ xem ra mấy thứ lúc trước đều trốn vào Hỗn Loạn Chiểu Trạch, sợ rằng mấy năm nay đã bồi dưỡng ra càng nhiều quái vật hơn.
Trận chiến giằng có ở Kya Loulan. có thể cung cấp cho Hắc ma pháp sư chất dinh dưỡng tốt nhất – linh hồn đau khổ.
Bạn đang xem bài viết Truyện Convert Chưa Xác Minh trên website Topcareplaza.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!