Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ mới nhất trên website Topcareplaza.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chào mào là chim Châu Á, từ Ấn độ với phía Nam Trung Quốc và kéo dài xuống phía Đông Nam á xuống Singapore-Indonsesia. Sau này được nhập vào Australia và đã sinh sản một số chim CM tức là gốc Châu Á. Được nhập vào tiểu bang Haiwaii ở Mỹ và tiểu bang tôi ở bây giờ là Florida. Nghe nói hồi thập niên 60 có nhập từ Ấn độ qua vài cặp và qua cơn bão. Chúng đã thoát ra và đã sinh sản được cũng trên 100 con. Tôi có xuống nhưng chưa thấy ngoài hoang dã, có thể là do xuống buổi trưa nên chim không bay ra ngoài hót. Có thể mùa này sinh sản có thể tìm thấy, bởi đã có vài hình ảnh người Mỹ đi du lịch xem chim đã chụp thấy có. Về hình dáng thì: chim CM quanh thế giới đều có net như nhau to hoặc nhỏ, và giọng có thể khác nhau do vùng chim. Riêng Ấn Độ thì: chim có cách tách đỏ rất to và lại có loại CM không có chấm trắng nơi đuôi. Về ở VN ta thì theo nghiên cứu của Giá Sư Võ Quý thì, từ HN xuống đèo Hải Vân là một giống, có hình dáng to con. Từ đèo Hải Vân và đổi Cao Nguyên Trung Phần xuống mà Nam là một giống. Và có hình dáng thân hình nhỏ con hơn một tí. có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là
Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “ Turaha pigli-Pitta bulbul Sipahi Kanera bulbu Phari Pettigrew-kick II. Sinh sản, hành vi sinh thái:
(sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch) Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á. – Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).
Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:
Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758) , được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.
Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.
Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.
Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.
Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận. Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài
Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)
Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp
Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:
Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.
Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.
Sự khác biệt giữa hai giới tính ở chim (ảnh dưới) – con bên trái là con mái được so sánh cùng độ tuổi.
Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất “nhầy nhầy” được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp “nhầy nhầy” là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Chi Ixos (cận ngành) Gần với Hemixos
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.
Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.
Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:
Greenbul vàng kim, Calyptocichla serina
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Chi Pycnonotus (cận ngành)
Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus
Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris
Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos
Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus
Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus
Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier
Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Chào mào thường, Pycnonotus barbatus
Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus
Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus
Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus
Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus
Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus
Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis
Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)
Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos
Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis
Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer
Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster
Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)
Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus
Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus
Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus
Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus
Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens
Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus
Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi
Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành
Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii
Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus
Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus
Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus
Cành cạch má xám, Alophoixus bres
Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus
Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua
Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea
Cành cạch trán vàng, Iole indica
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus
Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis
Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?
Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?
Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti
Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis
Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii
Cành cạch Sunda, Ixos virescens
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis
Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus
Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris
Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris
Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus
Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus
Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens
Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni
Greenbul điển hình và đồng minh
Chi Phyllastrephus (19 loài)
Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)
Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy
Chi Chlorocichla (6 loài)
Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)
Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)
Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus
Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.
Tách ra gần đây từ Pycnonotidae
Greenbul mỏ dài ở Madagascar hiện nay được coi là thuộc về nhóm chích Malagasy.
Hiện nay trong chích Malagasy
Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus
Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis
Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành
Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops
Tetraka Appert, Xanthomixis apperti
Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus
Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps
Nicator đốm vàng, Nicator chloris
Nicator miền đông, Nicator gularis
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
Tìm Hiểu Về Loài Chim Yến
Nằm trong quần thể hệ sinh vật đa dạng, phong phú ở vùng biển nước ta phải kể đến các loài chim biển, với hơn 200 loài, trong đó có cả các loài chim trú đông. Chúng được phân bổ khắp mọi địa hình, không gian như: đảo, bán đảo, bãi triều, bãi bồi, ghềnh đá, rừng ngập mặn; cửa sông, bãi cát, các khu dân cư ven biển, với nguồn thức ăn cũng rất hỗn hợp được khai thác từ chính nguồn lợi biển như các hệ sinh vật bao gồm: cá giáp xác, thân mềm, nhuyễn thể, hoa quả, lá, vỏ của một số ây trong hệ sinh thái rừng ngập mặn. Mỗi loài có những đặc tính sinh học khác nhau từ cách tìm kiếm ăn, làm tổ, đẻ trứng, chăm con, tự vệ và đặc biệt hơn cả là hình dạng, màu sắc, tiếng động. Trong những khu rừng ngập mặn, hay những dải rừng dương, thông, dừa ven biển cùng với những âm thanh được vang lên từ lòng đất, mặt đất. Tiếng hót của các loài chim biển như tăng thêm sự hấp dẫn cả “dàn đồng ca”, đa dạng của nhiều “loại nhạc cụ” mà bất cứ ai cũng dễ dàng cảm nhận được khi tới thăm và tìm hiểu những nơi ấy. Những đàn cò trắng đứng trên nóc những tán cây xanh trong khu rừng ngập mặn khi buổi hoàng hôn cuối ngày, những con bói cá, bồ nông, cuốc, diếc, cứ “hì hục” tìm bắt cá trong những vùng nước dưới tán cây, rồi tiếng chim gọi bạn.
Trong bài viết này tác giả xin giới thiệu tới loài chin yến, một loài chim quý đã và đang được cộng đồng dân cư ven biển bảo vệ giữ gìn và khai thác chúng rất có hiệu quả.
Chim yến có tên khoa học là (Collocalia fucipha ga ger-maini oustalet 1871) quen gọi là “Hải yến”, nhìn bề ngoài trông giống chim én nhưng lông không đẹp, hót không hay, mình nhỏ, cánh dài và nhọn, đuôi ngắn, mỏ hơi cong, lông ở lưng và bụng màu xám, lông và đuôi và ánh đen tuyền, do vậy nên yến còn được gọi là “huyền điểu”. Phân bố tập trung ở các vùng như vịnh Hạ Long, Đồng Hới (Vĩnh Sơn, Hòn La), Quy Nhơn, Cù lao Chàm, Nha Trang, Phú Quốc, Côn Đảo, Nam Du, Thổ Chu. Trong đó ở Khánh Hòa chiếm phần lớn số lượng khoảng 60%. Thức ăn của yến là các loài côn trùng nhỏ bay trong không khí, chúng là loài có tốc độ bay tương đối nhanh khi bay có nhiều hoạt động đồng hành diễn ra như: bắt mồi, tỉa lông, thậm chí còn vừa bay vừa ngủ. Chim yến sống thành từng đôi và tập trung thành các đàn có số lượng lớn phù hợp với kích thước tại các hang đá, những nơi ấy phải đủ mát thoáng khí, có độ ẩm vừa phải. Chúng chọn các vách núi đá cao lởm chởm để làm tổ. Yến được 1 tuổi (12 tháng) là bắt đầu sinh sản, vào tháng 12 dương lịch hàng năm chim yến bắt đầu xây tổ. Yến làm tổ bằng nước dãi (nước bọt), nước do cặp tuyến dưới lưỡi tiết ra (khác với các loài chim khác làm tổ bằng cỏ, rác, cành cây). Chúng xây tổ từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 hoặc tháng 5 sang năm mới xong, cũng có trường hợp chỉ xây một tháng là xong. Quá trình làm tổ diễn ra vào thời gian ban đêm. Chim yến có nửa chiếc vỏ quả trứng hay hình cái chén (mà người ta quen gọi là chén hạt mít), những lần làm sau tổ càng nhỏ đi, lúc đầu tổ có khối lượng từ 18 đến 20g, về sau chỉ nặng 5 đến 10g.
Sợi yến từ lúc mới có màu trắng, phơn phớt hồng, sợi ra đời từ các động tác yến dùng mỏ quẹt đi quẹt lại nhiều lần trên vách đá theo tư thế vành tròn xoáy ốc, thành tổ, sau một thời gian các sợi đó biến thành màu trắng đục do tác dụng của không khí. Mỗi sợi dài 35 đến 45cm, có độ dày 2,5mm.
Khoảng tháng 4 khi yến làm xong tổ, người ta bắt đầu khai thác yến sào đợt đầu tiên trong năm. Người ta làm các thang tre, có độ dẻo dài nối vào nhau rồi đeo dây bảo hiểm leo lên chỗ có tổ yến dùng kéo cắt nhưng thường để lại cho yến làm lại cái tổ sau trên nền tổ đó. Ngư dân khai thác ở lần yến xây dựng tổ lần thứ nhất, lần thứ hai, còn lần thứ ba tổ được để lại.
Yến mất tổ sẽ làm tổ mới, vào tháng 7 hoặc tháng 8 sau khi chim đẻ và ấp trứng xong. Mỗi con chỉ đẻ 2 trứng và ấp tròn 2 tháng chim non mới ra đời. Khi những con này cứng cáp, rời tổ, người ta mới bắt đầu khai thác yến sào, phải khai thác đúng thời điểm tránh những trường hợp như tổ đang có. Mặc dù ở thành bầy đàn rất đông nhưng hàng ngàn đôi yến không bao giờ bị nhầm tổ.
Yến sào đã đi vào văn hóa ẩm thực từ vài thế kỷ trước. Thời phong kiến đó là món chỉ được dành cho vua chúa. Khi triều đình mở tiệc to thiết đãi khách quý mới có món yến, vì vậy chữ “yến” thường đi kèm chữ “tiệc” chỉ bữa ăn linh đình thịnh soạn nhiều món và tốn kém. Có nhiều chất dinh dưỡng quý hàm chứa trong yến sào như protein chiếm khoảng 405, acidamin, đường, các loại vitamin và nguyên tố đa lượng, vi lượng có hoạt tính sinh học cao, acidsialic đó là acid có trong nước bọt, có tác dụng kích thích hoạt động thần kinh và xúc tiến quá trình sinh trưởng của tế bào. Yến sào còn được sử dụng thường xuyên xem như một vị thuốc quý mà ngành đông y luôn vận dụng có hiệu quả và cả trong dân gian đời sống thường nhật của người dân ven biển, được sử dụng với tên rất khác nhau như “Quan yến”, “Yến thái”, “Yến oa”, Yến oa thái… Đông y coi yến sào có vị ngọt tính bình, không độc, vào 3 kinh: phế, vị, thận. Có tác dụng: tư âm, nhuận phế, bổ tỳ ích khí, điều trị các chứng hư tổn của cơ thể, ho ra máu, hen suyễn, lỵ lâu ngày… Những đối tượng được áp dụng các loại thuốc quý này là: đàn bà sau khi đẻ hay bị băng huyết, trẻ em mắc bệnh suy dinh dưỡng, bụng ỏng, mắt to, lờ đờ, mệt mỏi, tác phong chậm chạm, người cao tuổi. Các thầy thuốc đông y thường hướng dẫn bệnh nhân sử dụng theo đơn rõ ràng như: dùng với liều lượng nhỏ (5 – 10g) trong thời gian dài mà trong thuật ngữ đông y gọi là “hoàn bổ” (bổ dần dần). Nhưng cũng cấm kỵ sử dụng trong các trường hợp như: những người mắc chứng bệnh “phế vị hư hàn” (phế, suy nhược thể hư han). “Đàm thấp đình trệ” và đang có biểu hiện mắc ngoại cảm.
Một số phương pháp mà những người thông thường có thể áp dụng yến sào để phục vụ mục đích chữa bệnh như:
– Nhân sâm yến thang: mộc nhĩ trắng, yến sào, đường phèn. Mộc nhĩ và yến ngâm nước cho nở ra sau cho vào nồi thêm nước nấu chín nhừ và cho đường phèn vào hòa tan đun sôi là dùng được.
– Canh nhân sâm yến sào: gồm yến nhân sâm, cho tất cả vào bát sứ (gốm) thêm chút nước tinh khiết hấp cách thủy cho chín.
– Thu lê yến oa: gồm quả lê, yến, đường phèn khoét bỏ lõi quả rồi cho yến đường phèn vào dùng tăm tre ken kín lại cho nước vào nấu chín.
– Canh sữa bò yến sào: yến sào hấp cách thủy cho chín sau thêm ít sữa bò nguyên chất đun cho sôi rồi sử dụng.
Tùy theo chất lượng yến sào được chia thành nhiều loại khác nhau như “Bạch yến” (quan yến), “Mao yến”, “Hồng yến” (yến bã trầu), “Huyết yến”, “Thêm yến”, “Địa yến”.
Hiện nay ở tỉnh Khánh Hòa có công ty chuyên khai thác yến sào, sản phẩm ấy được tiêu thụ ra thị trường trong và ngoài nước rất nhanh và nguồn cung cấp không đáp ứng đủ nhu cầu, doanh thu của Công ty này cũng rất cao. Tuy vậy, mục đích quan trọng hơn cả là phải biết bảo tồn duy trì tạo điều kiện môi trường tốt cho loài chim quý này phát triển rồi mới tính đến các biện pháp khai thác, những nguồn lợi quý giá của chúng. Mỗi du khách khi đến thăm miền Trung, ngoài những di sản quý báu như động Phong Nha – Kẻ Bàng, cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, Khu di tích Mỹ Sơn, còn đến thăm và đắm mình trong những bãi biển đẹp của miền Trung được thưởng thức nhiều món ăn hải sản quý như ở Lăng Cô (Huế), Quy Nhơn, Phú Yên và Đà Nẵng, chắc chắn trong mỗi chúng ta không thể không nhớ tới thành phố biển Nha Trang xinh đẹp và những món thượng hạng được chế biến từ sản phẩm yến sào.
Theo Tạp chí Biển Việt Nam số tháng 1+2-2008.
Tìm Hiểu Về Loài Chim Vành Khuyên
Các loài chim trong họ này rất khó phân biệt theo bề ngoài, bộ lông ở các phần trên của chúng có màu hơi xỉn như màu ôliu ánh lục, nhưng một số loài có phần lông ở họng, ở ngực hoặc các phần dưới màu trắng hay vàng tươi. Còn vài loài có phần hông màu vàng sẫm như màu da bò. Tuy nhiên, tên gọi khoa học của chúng, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại để chỉ cái vành đai quanh mắt, xung quanh mắt của nhiều loài có một vành tròn màu trắng dề thấy. Chúng có các cánh thuôn tròn và các chân khỏe. Chiều dài cơ thể tối đa là 15cm. Tất cả các loài trong họ này đều sống thành các bầy lớn và chúng chỉ tách ra khi tới mùa sinh sản, Lúc này, chúng sẽ làm tổ trên cây và đẻ từ 2 – 4 trứng màu lam nhạt không đốm. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng, nhưng loài chim này cũng ăn cả mật hoa và quả của nhiều loài thực vật. Loài vành khuyên châu Đại Dương lại gây hại ở các vườn nho tại Australia, do chúng khoét các quả nho và làm giảm phẩm cấp của nho.
Họ Vành khuyên được coi là một họ riêng biệt từ rất lâu trong lịch sử phân loại, do chúng nên đồng phát sinh khi xem xét về mặt hình thái và sinh thái, dẫn tới ít có sự bức xạ thích nghi và rẽ nhánh trong tiến hóa. Chi Apalopteron, trước đây được đặt trong họ Hút mật (Meliphagidae), đã được chuyển tói họ Vành khuyên trên cơ sở của các chứng cứ di truyền. Chúng khác biệt một cách rõ nét về bẽ ngoài với các loài điển hình thuộc chi Vành khuyên (Zosterops)、nhưng lại khá gần với một vài chi sinh sống trong khu vực Micronesia. Kiểu màu lông của chúng là sự lưu giữ rõ đơn nhất của vành mắt trắng không hoàn hảo.
Năm 2003, Alice Cibois đã công bố các kết quả trong nghiên cứu của bà về các chuỗi dữ liệu ADN ti thể (mtDNA) cytochrome b và 12S/16S rRNA. Theo kết quả của bà, các loài chim dạng vành khuyên có thể đã tạo thành một nhánh chứa cả chi Khướu mào (Yuhina) là chi được đặt trong họ Họa mi (Timaliidae), chúng là một họ lớn. Theo các nghiên cứu ở mức phân tử trước đây cùng với các chứng cứ hình thái học đã đặt không dứt khoát các loài chim dạng Vành khuyên là cáo họ hàng gần gũi nhất của họ Timaliidae. Tuy nhiên, các loài trong họ vành khuyên là rất giống nhau vê thói quen và hành vi, trong khi các loài trong họ Họa mi lại khác nhau
Cùng với các loài khướu mào (và có thể là cả một số chi khác của họ Timaliidae), thì các giới hạn giữa nhánh vành khuyên với nhánh họa mi “thật sự” trước kia trở nên không rõ ràng. Vì thế, có một số ý kiến khoa học năm 2007 đã nghiêng về phía hợp nhất nhánh chứa vành khuyên vào trong họ Timaliidae, dưới dạng của một phân họ có danh pháp là “Zosteropinae” (phân họ Vành khuyên). Tuy nhiên, có rất ít các loài trong họ Vành khuyên đã được nghiên cứu kỹ lưỡng với các kết quả mới và tất cả các loài này đều thuộc chi Zosterops mà tại thời điểm hiện nay chúng vẫn ở tình trạng lẫn lộn. Ngoài ra, nhiều chi/loài trong họ Họa mi vẫn chưa được giải quyết triệt để về quan hệ phát sinh loài.
Nguồn : Sưu tầm Internet
Tìm Hiểu Về Các Bước Và Cách Xỏ Khuyên Mũi?
1. Lưu ý trước khi xỏ khuyên
– Khi có ý định bấm khuyên các bạn cần phải tìm kiếm cho mình một địa chỉ xỏ khuyên uy tín, đảm bảo vệ sinh cũng như tìm được người thợ chuyên nghiệp lành nghề. Bởi nếu các bạn sơ sẩy trong việc này đặc biệt khi xỏ khuyên mũi sai cách thì rất dễ dẫn đến tình trạng đau, sưng tấy, mưng mủ và có thể để lại sẹo lồi. Nếu dụng cụ không được khử trùng cẩn thận nó ẩn chứa nhiều sự nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm. Dụng cụ được khử trùng đảm bảo vệ sinh nhưng nếu tay nghề của thợ còn non,thiếu chuyên nghiệp thì vẫn có thể dẫn đến vết xỏ khuyên mũi bị áp xe, sưng tấy…
– Xác định vị trí bấm: cách xỏ khuyên mũi phổ biến nhất là ở trên cánh mũi và vách ngăn trong mũi. Nhưng ngoài ra còn có một vài vị trí nữa mà nhiều người vẫn chưa biết, nó đau hơn rất nhiều những gì bạn có thể nghĩ.
Xác định được vị trí xỏ khuyên sẽ giúp bạn cũng như người thợ cảm thấy thoải mái hơn
– Chuẩn bị tâm lý: hãy đi đến nơi xỏ khuyên một mình hoặc đến cùng một người bạn thân thiết vì càng đông người tâm lý càng bị ảnh hưởng. Uống nhiều nước và trong quá trính bấm, xỏ khuyên hãy suy nghĩ về việc khác, không chú ý đến việc mà thợ đang làm, điều đó sẽ giúp bạn thoải mái hơn và giảm bớt cảm giác đau đớn.
2. Các bước xỏ khuyên mũi
Nhiều người có thể tưởng tượng ra được cách xỏ khuyên ra sao nhưng hầu hết trong đầu mỗi chúng ta đều có một câu hỏi thưởng trực xỏ khuyên mũi như thế nào?
Bước 1: Chọn khuyên: cần xác định trước vị trí cần bấm là ở cánh mũi, vách ngăn mũi hay ở sống mũi…vì bạn phải chọn khuyên để đeo sau khi xỏ khuyên phù hợp với cách xỏ của mình nên chọn khuyên mũi bạc.
Bước 2: Thông thường bước này chỉ xuất hiện ở các cơ sở lớn có dịch vụ xỏ khuyên chuyên nghiệp còn ở các cơ sở nhỏ lẻ dù nổi tiếng với tay nghề cao cũng không hẳn là có. Khách hàng sẽ phải ký vào một bản cam kết về sức khỏe rằng mình không bị mắc bệnh truyền nhiễm, đang mang thai ….
Bước 3: Sau khi đã làm xong thủ tục, người thợ sẽ dùng dụng cụ đánh dấu vị trí xỏ khuyên, trong công đoạn này bạn sẽ phải nín thở.
Dụng cụ xỏ khuyên rất đơn giản: kim, dụng cụ kẹp, khăn lau, thuộc khử trùng, tăm bông…
Bước 4: Nếu xỏ ở cánh mũi thì bạn có thể ngồi nhưng nếu ở các vị trí khác thì bạn phải nằm. Khi đã xác định được vị trí bấm người thợ sẽ dùng kẹp để giữ mũi sau đó đâm kim qua lỗ đã được đánh dấu. Cảm giác đau nhiều hau đau ít còn phụ thuộc vào người thợ bấm, vị trí bấm cũng như tâm lý của bạn.
Đâm kim qua lỗ xỏ đã đước đánh dấu là bước mang đến cho bạn cảm giác đau nhất
Bước 5: Sau khi đã đâm kim xuyên qua người thợ sẽ luồn khuyên bạn đã chọn trước đó qua lỗ bấm. Các bước xỏ khuyên đã xong. Cách xỏ khuyên mũi này cũng giống như cách xỏ ở các vị trí khác trên cơ thể.
Đeo khuyên mũi là công đoạn cuối cùng
Đây là cách xỏ khuyên vậy bấm khuyên mũi như thế nào? thông thường với vị trí ở mũi họ sẽ chọn xỏ nhiều hơn. Bấm khuyên chỉ dùng được ở vị trí cánh mũi mà thôi. Sau khi xỏ khuyên xong điều mà các bạn cần chú ý để vết xỏ có thể nhanh lành và không bị nhiềm trùng chính là khâu chăm sóc. Để có cách chăm sóc đúng nhất các bạn có thể tham khảo tại bài viết: Cách chăm sóc khuyên mũi nhanh lành và không biến chứng? chắc chắn bài viết này sẽ giúp bạn rất nhiều.
Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ trên website Topcareplaza.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!