Cập nhật thông tin chi tiết về Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim – Kipkis mới nhất trên website Topcareplaza.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
19. Ngôn ngữ của các loài chim
Việc tìm hiểu “ngôn ngữ” của các loài chim đã từ lâu hấp dẫn sự chú ý của nhiều người và biết bao nhiêu câu chuyện dân gian của nhiều dân tộc đã kể về những con người tài ba, có thể nói chuyện được với chim muông. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện thần thoại!
Hiện nay, những người như giáo sư Xôke ở Hungari, Lôren ở Đức, Tinbengen ở Anh và Lecman ở Mỹ cũng là những người gần như có thể hiểu được tiếng chim. Họ đã bỏ biết bao nhiêu công sức để nghiên cứu về tiếng nói của các loài chim, nhưng dầu sao cũng không ai trong họ quả quyết rằng mình có thể dịch được tiếng chim ra tiếng người. Chúng ta đã công nhận rằng chim phần nào có khả năng học tập, nhưng chắc chắn rằng “ngôn ngữ” của các loại chim lại là một thứ ngôn ngữ bẩm sinh, không giống với ngôn ngữ của loài người là phải học mới nói được.
Trong thứ “ngôn ngữ” của chim, tiếng hót giữ vai trò quan trọng. Vì sao chim hót và tiếng hót của chim có ý nghĩa gì? Để tìm hiểu điều đó có lẽ trước tiên chúng ta nên phân biệt tiếng hót và mọi loại tiếng kêu khác của chim. Olin Xêoan Pettingin, giám đốc phòng nghiên cứu chim ở Trường Đại học Cócnen đã đưa ra định nghĩa về tiếng hót của chim là “một chuỗi âm thanh được lặp đi lặp lại theo những cách đặc trưng và thường là do con trống phát ra trong mùa sinh sản”. Giáo sư Mansepxki ở Trường Đại học tổng hợp Lêningrát lại định nghĩa tiếng hót của chim là “những dấu hiệu đưa đến sự gặp gỡ giữa chim trống và chim mái đồng thời đó là tín hiệu của sự chiếm lĩnh vùng làm tổ và sự xác định ranh giới vùng đó”. Cả hai cách định nghĩa trên đều có ý tránh không dùng từ “phát âm” với hàm ý tiếng hót còn bao gồm cả những tiếng gõ nhịp nhàng của con gõ kiến hay tiếng đập cánh của gà rừng v.v…
Có những điệu hót nghe thánh thót, du dương, âm điệu phong phú như những bài ca tuyệt diệu của họa mi, khướu, chích chòe, sơn ca, những “ca sĩ” rất mực tài ba trong các loài chim ở nước ta. Nhưng cũng có những “điệu hót” nghe chói tai hay lê thê, một thứ tiếng không phải là âm nhạc như tiếng chèo chẹo ở rừng Tây bắc hay tiếng kêu “mùa khô” liên hồi của một loài chim cú rốc trong các rừng khộp ở Tây Nguyên. Dù đó là điệu hát mê li của loài sáo sống trong các cánh rừng mơ rộng ở Mêhicô hay là tiếng nấc lên buồn thảm của loài cuốc ở đồng ruộng vùng đông nam châu Á thì ý nghĩa của tiếng hót đều cơ bản như nhau. Trước hết đó là tiếng của chim trống công bố vùng đất sở hữu của mình và báo cho các chim trống đồng loại biết mà tránh xa, còn đối với chim mái thì đó lại là tiếng nói tỏ tình, là dấu hiệu tỏ rõ mình là trang nam nhi tuấn tú. Người giầu cảm xúc thường nghĩ rằng những khúc giai điệu mùa xuân của các loài chim là bài hát ca tụng niềm vui, thì thật khó mà tin được rằng đó thường lại chỉ là lời công bố về quan hệ pháp lý – một lời tuyên bố cứng rắn với kẻ đối thủ mà thôi. Tiếng hót càng liên tục hơn, càng hăng hái hơn khi ca sĩ biết rằng có một con chim trống khác đồng loại đang nghe, và hẳn là khi có kẻ vi phạm đường biên giới vô hình của vùng đất đã được xác định, hắn sẽ bị đánh đuổi, nhưng thường là chỉ nghe tiếng hót hăng hái thôi cũng đủ khiến hắn phải lảng ra xa rồi.
Tiếng hót vào đầu mùa xuân có lẽ là tiếng hót mạnh mẽ nhất, dứt khoát nhất, dai dẳng nhất và cũng là lời tuyên bố đanh thép nhất. Ngay một tiêu bản của chim trống nhồi, dù vụng về đến mấy mà đặt vào trong vùng lãnh thổ của một con chim đang hót đó, nó cũng xông vào đánh, đặc biệt là khi có máy ghi âm phát thêm tiếng để gợi sự chú ý nữa. Nhưng một con chim cổ đỏ sẽ không công kích một con sẻ nhồi, hoặc một con sáo. Nó chỉ phản công đối với chim cổ đỏ mà thôi. Davít Lac ở trường Đại học Oxfo khi thí nghiệm với con chim cổ đỏ nước Anh, ông đã phát hiện ra rằng cái mà làm cho con cổ đỏ nổi xung lên chính là cái ngực đỏ của đối thủ. Ngay chỉ một chùm lông ngực đỏ quấn vào dây thép cũng bị tấn công dữ dội. Thậm chí khi cái đó đã được cất đi, con chim vẫn hăng hái xông vào đánh chỗ đặt chùm lông. Nói chung những kiểu dựng lông cổ lên, những màu sắc rực rỡ của bộ lông, hay là mọi thứ trang hoàng khác chỉ xuất hiện vào mùa sinh sản đều là có ý nghĩa khiêu khích hay hăm dọa đối với con trống khác, đồng thời lại là cái để chinh phục các con chim mái. Sự tấn công và đánh trả đã làm cho tiếng hót của chim phát triển đến mức cao độ và nếu như không có những sự kiện này thì cuộc sống của con chim hẳn là mất đi nhiều vẻ quyến rũ của nó.
Nếu như một con chim trống nhồi đã có thể kích nên một trận đánh nhau ác liệt thì không có gì lạ là một con chim mái nhồi lại gây nên một phản ứng ngược lại. Cũng tiếng hót đó nhưng bây giờ nó có vẻ êm dịu hơn, thánh thót hơn. Dầu cho con chim nhồi có tỏ vẻ lãnh đạm, thì cũng không hề gì. Chừng nào nó còn tỏ ra là một con chim mái của loài đó, thì nó vẫn còn vẻ hấp dẫn và con chim trống nồng nhiệt bị lừa kia vẫn cứ hót và quay đi quay lại xung quanh cái tiêu bản nhồi ngay cả khi nó đã bị vặt cả đầu lẫn cánh.
Uynliam Vốt trong khi nghiên cứu về con sẻ bụng vàng trống, đã làm thay đổi màu sắc của một con mái nhồi bằng cách dán một dải băng đen qua mặt nó (con trống của loài này có dải đen đó, con mái không có). Khi con trống quay trở lại, theo nhận xét của Vốt thì phản ứng đầu tiên của nó là sững sờ vì ngạc nhiên, “dường như chim mái đã phản bội”, sau đó nó xông vào đánh kẻ lừa gạt.
Chim mái cũng có tiếng nói riêng của nó để tỏ tình. Khi một con chim mái bị hấp dẫn bởi tiếng hót của chim trống mà đến gần thì đầu tiên, con chim trống còn hăm dọa nó. Nhưng nó đã biết làm nguôi cơn giận của chim trống bằng một dấu hiệu xoa dịu, một cử chỉ tế nhị, một tiếng kêu dịu dàng mà chỉ đồng loại mới thông cảm được như cái vẩy đầu duyên dáng mà điển hình của con mòng biển đầu đen, hay nhịp vỗ cánh kiểu đòi ăn của chim non với tiếng kêu chíp chíp để biểu thị sự quy phục của nhiều loài chim cỡ nhỏ. Đó là một kiểu nói chuyện có tính chất “làm nũng”, “trẻ con” của loài chim nhưng lại dẫn đến sự kết đôi trong mùa sinh sản.
Tiếng hót của các loài chim thường được bắt đầu từ lúc sáng sớm. Nó cất lên hăng hái rộn ràng nhất vào lúc Mặt trời vừa mọc, giảm dần cho đến lúc gần trưa để rồi lại tiếp tục mạnh lên vào khoảng xế chiều. Tiếng hót của nhiều loài chim, hình như không biết mệt mỏi, nó vang lên từ lúc mới rạng đông và kéo dài không dứt cho đến tận chiều tối như tiếng của nhiều loài chim sống trong các khu rừng rụng lá bao la vào mùa khô ở miền Tây nam nước ta hay tiếng của chèo chẹo, tu hú, cu rốc có ở nhiều vùng. Cũng có một số loài chim mà tiếng “hót” của chúng kéo dài cả suốt đêm khuya như cuốc và tìm vịt. Đó là những tiếng hót đầu mùa sinh đẻ của các loài chim, lúc mà ranh giới vùng làm tổ còn có chỗ tranh chấp và cũng là lúc mà nhiều chim trống chưa tìm được bạn lứa đôi. Nhưng rồi ít lâu sau, tiếng hót của chim có phần thưa bớt, nhưng lại giàu tính chất tình cảm. Nó mang nhiều ý nghĩa khẳng định lòng trung thành giữa đôi bạn trong mùa sinh đẻ hơn là để xác định vùng đất, vùng trời.
Dường như trong thế giới các loài chim có một quy luật bù trừ là những loài có màu sắc giản dị lại là những ca sĩ tài ba. Về điều đó. chúng ta có thể nghĩ rằng những loài chim có bộ lông rực rỡ thì ngôn ngữ để tỏ tình cảm của chúng chính là màu sắc, là dáng điệu như các loài chim thiên đường, công, trĩ. Còn những loài chim có màu nâu xám của đồng ruộng như sơn ca, chiến chiện chúng không có bộ cánh bảnh bao và không có vẻ đẹp bề ngoài hấp dẫn, màu lông của chúng mộc mạc như hòn đất, củ khoai thì thiên nhiên đã phú cho chúng giọng hót mê ly. Chúng bay bổng lên cao và ngự trị cả một vùng rộng lớn bằng giọng hót véo von không dứt của chúng.
Trước khi có máy ghi âm hiện đại, Arêtas Xaođơ, nhà phân tích tài ba về tiếng hót của chim đã sáng tạo ra một hệ thống ký hiệu để ghi lại và diễn đạt bằng hình tiếng hót của chim. Dựa vào đôi tai phi thường của mình và hệ thống ký hiệu, ông đã phát hiện ra rằng trong nhiều loài chim không bao giờ có 2 tiếng hót của 2 cá thể hoàn toàn giống nhau. Qua nhiều năm nghiên cứu ông đã ghi lại được 884 dạng tiếng hót khác nhau của chim sẻ lưng vàng ở Bắc Mỹ. Ít năm sau, Bôro tiếp tục nghiên cứu sâu hơn với chiếc máy ghi âm. Ông tập trung nghiên cứu tiếng hót của chim sẻ lưng vàng ở đảo Hốt. Ông đã ghi được 462 lần tiếng hót của nó và khi phân tích thì thấy rằng có 13 kiểu hoàn toàn khác biệt và 187 kiểu phụ. Tuy thế nhưng tính chất cơ bản thì vẫn như nhau và qua mỗi điệu đều có thể nhận biết ngay là tiếng hót của sẻ lưng vàng.
Rõ ràng là những nét khác biệt trong tiếng hót của các cá thể mà tai chúng ta không nhận biết được đã giúp cho chim nhận ra hàng xóm của mình và phát hiện ra kẻ lạ mặt.
Máy ghi âm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu tiếng hót của chim. Nhờ có máy mà người ta đã ghi được nhiều thứ tiếng hót khác nhau của chim. Máy ghi âm còn dùng để phân tích tiếng chim, bằng cách cho máy chạy chậm lại lúc phát tiếng ra hay cho băng ghi âm qua giao động ký. Nhờ cách phân tích như vậy mà người ta đã phát hiện được nhiều điều lý thú trong tiếng hót của chim và một khoa học mới đã ra đời: khoa âm sinh học.
Âm thanh của chim phát ra không phải chỉ có tiếng hót mà còn có nhiều thứ tiếng kêu khác (như ta thường hay gọi) do chim phát ra trong những hoàn cảnh khác nhau. Ta có thể chia âm thanh của chim ra làm 5 loại chính với ý nghĩa: 1) hoạt động tập hợp thành bầy, 2) báo có thức ăn, 3) báo có kẻ thù, 4) thể hiện tình cảm mẹ con và 5) biểu thị tình yêu và xung đột. Tiếng hót của chim dĩ nhiên là nặng về ý nghĩa cuối cùng này. Ngoài ra trong khi bay di cư nhất là về đêm chim thường phát ra một thứ tiếng ngắn gọn, mà không nghe vào những lúc nào khác. Tất nhiên những âm thanh này chỉ có ý nghĩa là để thông tin với nhau về đường bay, lúc không trông thấy nhau vì cách xa nhau hay vì tối trời.
Khi quan sát chim hoạt động trong thiên nhiên chúng ta có thể nhận thấy được một cách dễ dàng ý nghĩa của những âm thanh mà chúng phát ra từng lúc. Trên bãi phù sa ở cửa sông Hồng nơi một bầy ngỗng trời về đây trú đông đang kiếm mồi, chúng chuyện trò rầm rì nho nhỏ, nhưng bỗng một tiếng rống to báo hiệu, tất cả vội vàng cất cánh và khi cả đàn chim đã bốc lên cao, dàn thành hình mũi tên dài, bay về phía chân trời thì cả đàn lại cất lên một điệu hợp xướng sôi nổi. Hẳn là mỗi thứ âm thanh mà đàn ngỗng phát ra đều mang ý nghĩa riêng của nó.
Tiếng kêu báo động cũng là một thứ tiếng phổ biến của các loài chim, và tùy theo mức độ nguy hiểm mà tiếng kêu đó có khác nhau. Một con gà mái khi nhận thấy có bóng dáng diều hâu, nó liền phát ra một thứ tiếng chói tai khiến cho đàn gà con tản ngay vào chỗ ẩn nấp, nằm im thin thít, còn khi có con chó hay người lạ đến gần thì tiếng báo động chỉ là tiếng cục tác và đàn gà con cũng chỉ chạy xúm lại gần mẹ mà không tìm chỗ ẩn nấp như khi có diều hâu.
Có thể nói rằng mọi âm thanh mà chim phát ra đều mang một ý nghĩa riêng, nó là một thứ “lời nói”, một thứ “ngôn ngữ” để thông báo cho đồng loại biết một tin tức nhất định nào đó. Thậm chí các loài chim khác nhau cùng chung sống với nhau ở một môi trường như trong một cánh rừng, trên một vùng đồng lầy, không những hiểu được nhiều thứ tiếng kêu của các loại khác như tiếng kêu gọi đàn, tiếng kêu xuất phát, tiếng gọi tập hợp, tiếng gọi đến ăn, tiếng báo động…, giống như một người nói tiếng Việt mà đồng thời nhận ra ý nghĩa cơ bản của những câu nói bằng tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp mà người ấy không biết.
Tác phẩm, tác giả, nguồn
Tác phẩm: Đời sống các loài chim
Tác giả: Võ Quý
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội – 1978
Đôi dòng về tác giả: GS. Võ Quý: Ông dành cả cuộc đời say sưa nghiên cứu các loài chim và có nhiều đóng góp lớn cho khoa học môi trường Việt Nam và thế giới. Ông là người Việt Nam đầu tiên ở Châu Á giành được giải thưởng Blue Planet Prize về môi trường.
“Like” us to know more!
Knowledge is power
Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim
19. Ngôn ngữ của các loài chim
Việc tìm hiểu “ngôn ngữ” của các loài chim đã từ lâu hấp dẫn sự chú ý của nhiều người và biết bao nhiêu câu chuyện dân gian của nhiều dân tộc đã kể về những con người tài ba, có thể nói chuyện được với chim muông. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện thần thoại!
Hiện nay, những người như giáo sư Xôke ở Hungari, Lôren ở Đức, Tinbengen ở Anh và Lecman ở Mỹ cũng là những người gần như có thể hiểu được tiếng chim. Họ đã bỏ biết bao nhiêu công sức để nghiên cứu về tiếng nói của các loài chim, nhưng dầu sao cũng không ai trong họ quả quyết rằng mình có thể dịch được tiếng chim ra tiếng người. Chúng ta đã công nhận rằng chim phần nào có khả năng học tập, nhưng chắc chắn rằng “ngôn ngữ” của các loại chim lại là một thứ ngôn ngữ bẩm sinh, không giống với ngôn ngữ của loài người là phải học mới nói được.
Trong thứ “ngôn ngữ” của chim, tiếng hót giữ vai trò quan trọng. Vì sao chim hót và tiếng hót của chim có ý nghĩa gì? Để tìm hiểu điều đó có lẽ trước tiên chúng ta nên phân biệt tiếng hót và mọi loại tiếng kêu khác của chim. Olin Xêoan Pettingin, giám đốc phòng nghiên cứu chim ở Trường Đại học Cócnen đã đưa ra định nghĩa về tiếng hót của chim là “một chuỗi âm thanh được lặp đi lặp lại theo những cách đặc trưng và thường là do con trống phát ra trong mùa sinh sản”. Giáo sư Mansepxki ở Trường Đại học tổng hợp Lêningrát lại định nghĩa tiếng hót của chim là “những dấu hiệu đưa đến sự gặp gỡ giữa chim trống và chim mái đồng thời đó là tín hiệu của sự chiếm lĩnh vùng làm tổ và sự xác định ranh giới vùng đó”. Cả hai cách định nghĩa trên đều có ý tránh không dùng từ “phát âm” với hàm ý tiếng hót còn bao gồm cả những tiếng gõ nhịp nhàng của con gõ kiến hay tiếng đập cánh của gà rừng v.v…
Có những điệu hót nghe thánh thót, du dương, âm điệu phong phú như những bài ca tuyệt diệu của họa mi, khướu, chích chòe, sơn ca, những “ca sĩ” rất mực tài ba trong các loài chim ở nước ta. Nhưng cũng có những “điệu hót” nghe chói tai hay lê thê, một thứ tiếng không phải là âm nhạc như tiếng chèo chẹo ở rừng Tây bắc hay tiếng kêu “mùa khô” liên hồi của một loài chim cú rốc trong các rừng khộp ở Tây Nguyên. Dù đó là điệu hát mê li của loài sáo sống trong các cánh rừng mơ rộng ở Mêhicô hay là tiếng nấc lên buồn thảm của loài cuốc ở đồng ruộng vùng đông nam châu Á thì ý nghĩa của tiếng hót đều cơ bản như nhau. Trước hết đó là tiếng của chim trống công bố vùng đất sở hữu của mình và báo cho các chim trống đồng loại biết mà tránh xa, còn đối với chim mái thì đó lại là tiếng nói tỏ tình, là dấu hiệu tỏ rõ mình là trang nam nhi tuấn tú. Người giầu cảm xúc thường nghĩ rằng những khúc giai điệu mùa xuân của các loài chim là bài hát ca tụng niềm vui, thì thật khó mà tin được rằng đó thường lại chỉ là lời công bố về quan hệ pháp lý – một lời tuyên bố cứng rắn với kẻ đối thủ mà thôi. Tiếng hót càng liên tục hơn, càng hăng hái hơn khi ca sĩ biết rằng có một con chim trống khác đồng loại đang nghe, và hẳn là khi có kẻ vi phạm đường biên giới vô hình của vùng đất đã được xác định, hắn sẽ bị đánh đuổi, nhưng thường là chỉ nghe tiếng hót hăng hái thôi cũng đủ khiến hắn phải lảng ra xa rồi.
Tiếng hót vào đầu mùa xuân có lẽ là tiếng hót mạnh mẽ nhất, dứt khoát nhất, dai dẳng nhất và cũng là lời tuyên bố đanh thép nhất. Ngay một tiêu bản của chim trống nhồi, dù vụng về đến mấy mà đặt vào trong vùng lãnh thổ của một con chim đang hót đó, nó cũng xông vào đánh, đặc biệt là khi có máy ghi âm phát thêm tiếng để gợi sự chú ý nữa. Nhưng một con chim cổ đỏ sẽ không công kích một con sẻ nhồi, hoặc một con sáo. Nó chỉ phản công đối với chim cổ đỏ mà thôi. Davít Lac ở trường Đại học Oxfo khi thí nghiệm với con chim cổ đỏ nước Anh, ông đã phát hiện ra rằng cái mà làm cho con cổ đỏ nổi xung lên chính là cái ngực đỏ của đối thủ. Ngay chỉ một chùm lông ngực đỏ quấn vào dây thép cũng bị tấn công dữ dội. Thậm chí khi cái đó đã được cất đi, con chim vẫn hăng hái xông vào đánh chỗ đặt chùm lông. Nói chung những kiểu dựng lông cổ lên, những màu sắc rực rỡ của bộ lông, hay là mọi thứ trang hoàng khác chỉ xuất hiện vào mùa sinh sản đều là có ý nghĩa khiêu khích hay hăm dọa đối với con trống khác, đồng thời lại là cái để chinh phục các con chim mái. Sự tấn công và đánh trả đã làm cho tiếng hót của chim phát triển đến mức cao độ và nếu như không có những sự kiện này thì cuộc sống của con chim hẳn là mất đi nhiều vẻ quyến rũ của nó.
Nếu như một con chim trống nhồi đã có thể kích nên một trận đánh nhau ác liệt thì không có gì lạ là một con chim mái nhồi lại gây nên một phản ứng ngược lại. Cũng tiếng hót đó nhưng bây giờ nó có vẻ êm dịu hơn, thánh thót hơn. Dầu cho con chim nhồi có tỏ vẻ lãnh đạm, thì cũng không hề gì. Chừng nào nó còn tỏ ra là một con chim mái của loài đó, thì nó vẫn còn vẻ hấp dẫn và con chim trống nồng nhiệt bị lừa kia vẫn cứ hót và quay đi quay lại xung quanh cái tiêu bản nhồi ngay cả khi nó đã bị vặt cả đầu lẫn cánh.
Uynliam Vốt trong khi nghiên cứu về con sẻ bụng vàng trống, đã làm thay đổi màu sắc của một con mái nhồi bằng cách dán một dải băng đen qua mặt nó (con trống của loài này có dải đen đó, con mái không có). Khi con trống quay trở lại, theo nhận xét của Vốt thì phản ứng đầu tiên của nó là sững sờ vì ngạc nhiên, “dường như chim mái đã phản bội”, sau đó nó xông vào đánh kẻ lừa gạt.
Chim mái cũng có tiếng nói riêng của nó để tỏ tình. Khi một con chim mái bị hấp dẫn bởi tiếng hót của chim trống mà đến gần thì đầu tiên, con chim trống còn hăm dọa nó. Nhưng nó đã biết làm nguôi cơn giận của chim trống bằng một dấu hiệu xoa dịu, một cử chỉ tế nhị, một tiếng kêu dịu dàng mà chỉ đồng loại mới thông cảm được như cái vẩy đầu duyên dáng mà điển hình của con mòng biển đầu đen, hay nhịp vỗ cánh kiểu đòi ăn của chim non với tiếng kêu chíp chíp để biểu thị sự quy phục của nhiều loài chim cỡ nhỏ. Đó là một kiểu nói chuyện có tính chất “làm nũng”, “trẻ con” của loài chim nhưng lại dẫn đến sự kết đôi trong mùa sinh sản.
Tiếng hót của các loài chim thường được bắt đầu từ lúc sáng sớm. Nó cất lên hăng hái rộn ràng nhất vào lúc Mặt trời vừa mọc, giảm dần cho đến lúc gần trưa để rồi lại tiếp tục mạnh lên vào khoảng xế chiều. Tiếng hót của nhiều loài chim, hình như không biết mệt mỏi, nó vang lên từ lúc mới rạng đông và kéo dài không dứt cho đến tận chiều tối như tiếng của nhiều loài chim sống trong các khu rừng rụng lá bao la vào mùa khô ở miền Tây nam nước ta hay tiếng của chèo chẹo, tu hú, cu rốc có ở nhiều vùng. Cũng có một số loài chim mà tiếng “hót” của chúng kéo dài cả suốt đêm khuya như cuốc và tìm vịt. Đó là những tiếng hót đầu mùa sinh đẻ của các loài chim, lúc mà ranh giới vùng làm tổ còn có chỗ tranh chấp và cũng là lúc mà nhiều chim trống chưa tìm được bạn lứa đôi. Nhưng rồi ít lâu sau, tiếng hót của chim có phần thưa bớt, nhưng lại giàu tính chất tình cảm. Nó mang nhiều ý nghĩa khẳng định lòng trung thành giữa đôi bạn trong mùa sinh đẻ hơn là để xác định vùng đất, vùng trời.
Dường như trong thế giới các loài chim có một quy luật bù trừ là những loài có màu sắc giản dị lại là những ca sĩ tài ba. Về điều đó. chúng ta có thể nghĩ rằng những loài chim có bộ lông rực rỡ thì ngôn ngữ để tỏ tình cảm của chúng chính là màu sắc, là dáng điệu như các loài chim thiên đường, công, trĩ. Còn những loài chim có màu nâu xám của đồng ruộng như sơn ca, chiến chiện chúng không có bộ cánh bảnh bao và không có vẻ đẹp bề ngoài hấp dẫn, màu lông của chúng mộc mạc như hòn đất, củ khoai thì thiên nhiên đã phú cho chúng giọng hót mê ly. Chúng bay bổng lên cao và ngự trị cả một vùng rộng lớn bằng giọng hót véo von không dứt của chúng.
Trước khi có máy ghi âm hiện đại, Arêtas Xaođơ, nhà phân tích tài ba về tiếng hót của chim đã sáng tạo ra một hệ thống ký hiệu để ghi lại và diễn đạt bằng hình tiếng hót của chim. Dựa vào đôi tai phi thường của mình và hệ thống ký hiệu, ông đã phát hiện ra rằng trong nhiều loài chim không bao giờ có 2 tiếng hót của 2 cá thể hoàn toàn giống nhau. Qua nhiều năm nghiên cứu ông đã ghi lại được 884 dạng tiếng hót khác nhau của chim sẻ lưng vàng ở Bắc Mỹ. Ít năm sau, Bôro tiếp tục nghiên cứu sâu hơn với chiếc máy ghi âm. Ông tập trung nghiên cứu tiếng hót của chim sẻ lưng vàng ở đảo Hốt. Ông đã ghi được 462 lần tiếng hót của nó và khi phân tích thì thấy rằng có 13 kiểu hoàn toàn khác biệt và 187 kiểu phụ. Tuy thế nhưng tính chất cơ bản thì vẫn như nhau và qua mỗi điệu đều có thể nhận biết ngay là tiếng hót của sẻ lưng vàng.
Rõ ràng là những nét khác biệt trong tiếng hót của các cá thể mà tai chúng ta không nhận biết được đã giúp cho chim nhận ra hàng xóm của mình và phát hiện ra kẻ lạ mặt.
Máy ghi âm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu tiếng hót của chim. Nhờ có máy mà người ta đã ghi được nhiều thứ tiếng hót khác nhau của chim. Máy ghi âm còn dùng để phân tích tiếng chim, bằng cách cho máy chạy chậm lại lúc phát tiếng ra hay cho băng ghi âm qua giao động ký. Nhờ cách phân tích như vậy mà người ta đã phát hiện được nhiều điều lý thú trong tiếng hót của chim và một khoa học mới đã ra đời: khoa âm sinh học.
Âm thanh của chim phát ra không phải chỉ có tiếng hót mà còn có nhiều thứ tiếng kêu khác (như ta thường hay gọi) do chim phát ra trong những hoàn cảnh khác nhau. Ta có thể chia âm thanh của chim ra làm 5 loại chính với ý nghĩa: 1) hoạt động tập hợp thành bầy, 2) báo có thức ăn, 3) báo có kẻ thù, 4) thể hiện tình cảm mẹ con và 5) biểu thị tình yêu và xung đột. Tiếng hót của chim dĩ nhiên là nặng về ý nghĩa cuối cùng này. Ngoài ra trong khi bay di cư nhất là về đêm chim thường phát ra một thứ tiếng ngắn gọn, mà không nghe vào những lúc nào khác. Tất nhiên những âm thanh này chỉ có ý nghĩa là để thông tin với nhau về đường bay, lúc không trông thấy nhau vì cách xa nhau hay vì tối trời.
Khi quan sát chim hoạt động trong thiên nhiên chúng ta có thể nhận thấy được một cách dễ dàng ý nghĩa của những âm thanh mà chúng phát ra từng lúc. Trên bãi phù sa ở cửa sông Hồng nơi một bầy ngỗng trời về đây trú đông đang kiếm mồi, chúng chuyện trò rầm rì nho nhỏ, nhưng bỗng một tiếng rống to báo hiệu, tất cả vội vàng cất cánh và khi cả đàn chim đã bốc lên cao, dàn thành hình mũi tên dài, bay về phía chân trời thì cả đàn lại cất lên một điệu hợp xướng sôi nổi. Hẳn là mỗi thứ âm thanh mà đàn ngỗng phát ra đều mang ý nghĩa riêng của nó.
Tiếng kêu báo động cũng là một thứ tiếng phổ biến của các loài chim, và tùy theo mức độ nguy hiểm mà tiếng kêu đó có khác nhau. Một con gà mái khi nhận thấy có bóng dáng diều hâu, nó liền phát ra một thứ tiếng chói tai khiến cho đàn gà con tản ngay vào chỗ ẩn nấp, nằm im thin thít, còn khi có con chó hay người lạ đến gần thì tiếng báo động chỉ là tiếng cục tác và đàn gà con cũng chỉ chạy xúm lại gần mẹ mà không tìm chỗ ẩn nấp như khi có diều hâu.
Có thể nói rằng mọi âm thanh mà chim phát ra đều mang một ý nghĩa riêng, nó là một thứ “lời nói”, một thứ “ngôn ngữ” để thông báo cho đồng loại biết một tin tức nhất định nào đó. Thậm chí các loài chim khác nhau cùng chung sống với nhau ở một môi trường như trong một cánh rừng, trên một vùng đồng lầy, không những hiểu được nhiều thứ tiếng kêu của các loại khác như tiếng kêu gọi đàn, tiếng kêu xuất phát, tiếng gọi tập hợp, tiếng gọi đến ăn, tiếng báo động…, giống như một người nói tiếng Việt mà đồng thời nhận ra ý nghĩa cơ bản của những câu nói bằng tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp mà người ấy không biết.
Tác phẩm, tác giả, nguồn
Tác phẩm: Đời sống các loài chim
Tác giả: Võ Quý
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội – 1978
Đôi dòng về tác giả: GS. Võ Quý: Ông dành cả cuộc đời say sưa nghiên cứu các loài chim và có nhiều đóng góp lớn cho khoa học môi trường Việt Nam và thế giới. Ông là người Việt Nam đầu tiên ở Châu Á giành được giải thưởng Blue Planet Prize về môi trường.
Thụ Đắc Ngôn Ngữ Thứ Nhất: Những Thắc Mắc Thường Gặp (Kỳ 2)
Cái mà một đứa trẻ cần học chính là những gì đang tồn tại trong chính chúng, những nhu cầu phát triển thường trực do chúng đặt ra, những nhiệm vụ mà chúng phải làm, những thắc mắc cụ thể mà chúng thường gặp. Người lớn cần phải dành thời gian cho mình để hiểu điều này, cũng như phải cho trẻ có thời gian để hiểu và học những cái mà tuổi của chúng cần.
Tương tác nhiều với trẻ nhưng người lớn cũng cần cho trẻ nhiều thời gian để “tự nói với mình cái gì thì nói, làm cái gì với mình thì làm” ở trong tầm kiểm soát của người lớn. Trẻ có thể thích một mình quan sát và nói chuyện với bông hoa, có thể thích vầy bùn đất lấm lem, có thể một mình tức giận với con cún con không chịu mặc quần áo, có thể nổi cơn tam bành với con mèo kêu meo meo đã làm em bé búp bê thức giấc, có thể bực mình với mẹ khi mẹ mắng bạn thú nhún không chịu đi ngủ,… Cha mẹ nên để trẻ tự do với vốn ngôn ngữ của mình khi tương tác, tiếp xúc trong những tình huống như vậy. Đó là cách tự khám phá tốt nhất của trẻ. Đó là cách tự bộc lộ, đánh giá và rèn luyện ngôn ngữ tốt nhất của trẻ. Người lớn cần biết rằng trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ của trẻ khi trẻ càng nắm và sử dụng được càng nhiều ngôn ngữ thì sự tiến bộ mà chúng ta nhìn thấy càng kém rõ rệt. (Điều này cũng đúng với quá trình học ngôn ngữ của người lớn). Chỉ đến một lúc nào đó hay trong một tình huống hoặc nhiệm vụ bất ngờ nào đó chúng ta mới chợt nhận ra được sự tiến bộ này. Chẳng hạn, các bậc cha mẹ sẽ rất ngạc nhiên nếu quan sát thấy rằng con mình nói ra và sử dụng rất đúng các cách nói gần gũi nhau như làm nổi, làm được, làm cho được,…, dù rằng trên thực tế chúng ta khó hoặc không thể, hoặc cũng có thể không bao giờ có thể đưa ra được lời giảng dạy hay hướng dẫn sử dụng những cách nói này một cách chính xác và dễ dàng.
Mọi trẻ đều có tốc độ học ngôn ngữ như nhau hay không?
Việc thụ đắc ngôn ngữ cũng như sự phát triển nói chung của trẻ không phải là sự hoạt động của các cỗ máy khác nhau cho cùng một nhiệm vụ. Quá trình này cũng không phải là quá trình ganh đua có chủ đích giữa những đứa trẻ giống như chúng chạy thi hay ăn thi. Trẻ không hề tự đặt được ra cho mình một mốc hay biểu đồ phát triển, hay phải vượt qua một trình độ ngôn ngữ nào đó mà cha mẹ đặt ra cho chúng. Chúng tự thi đua với chính chúng theo tốc độ và ngưỡng đạt được của chính mình. Một đứa trẻ biết nói sớm hay sử dụng ngôn ngữ giỏi ở một thời điểm nào đó không tất yếu nói lên rằng đến khi 18 tuổi chúng sẽ có ngôn ngữ hay năng lực giao tiếp giỏi hơn, hay có một sự lựa chọn nghề nghiệp thông minh hơn một đứa trẻ chậm biết nói. Năng lực ngôn ngữ chỉ là một phần trong số những thứ mà đứa trẻ phải học tuần tự, tự nhiên. Một đứa trẻ chậm nói hoàn toàn có thể có một năng lực nào đó tốt hơn một đứa trẻ nói giỏi. Vấn đề là ở chỗ một đứa trẻ chậm nói rất có thể đã “đầu tư” năng lực của mình vào một nhiệm vụ nào đó khác nhiệm vụ ngôn ngữ nên chúng có thể không giỏi ngôn ngữ. Trường hợp những đứa trẻ giỏi toán, hay giỏi vẽ, hay giỏi vận động nhưng lại kém giỏi ngôn ngữ có thể giúp chúng ta hình dung điều này.
Học ngôn ngữ là một quá trình tự nhiên. Mọi cái mà trẻ có ý định học đều phải cần có những điều kiện hay nền tảng tất yếu nào đó. Trẻ chỉ học cái gì đó khi bản thân chúng đã sẵn sàng có hứng thú. Chúng có thể nói như vẹt những gì mà người lớn cố gắng dạy chúng, nhưng câu chuyện chúng có hiểu và tháo gỡ những kết cấu ngôn ngữ đó ra để sử dụng hay không lại là một chuyện khác. Tuy nhiên, chúng ta cần tận dụng điều này để giúp trẻ phát triển lời nói ở phương diện ngữ âm thuần tuý, tức là phát triển khả năng nói tròn vành rõ chữ. Điều này giải thích tại sao đôi khi chúng ta chỉ chú ý đến việc dạy trẻ học hát hay học thuộc một vài câu đồng dao thuần tuý, mà không hề quan tâm hay ý thức được rằng ở tầm tuổi phát triển đó, trẻ không thể hiểu nổi và tháo gỡ các kết cấu ngôn ngữ ở đó ra để sử dụng lại bình thường như chúng ta hằng nghĩ và trông đợi.
Một con vẹt học nói chỉ để nói. Một đứa trẻ học nói là để hoạt động, nhận thức, phát triển, để trang bị cho mình nhận thức và tư tưởng, để hình thành thế giới quan và nhân sinh quan của riêng mình,… Cái mà một đứa trẻ cần học không phải là những gì ở trong sách vở, không phải là những gì quá sức nhưng lại rất tốt đẹp mà các bậc cha mẹ muốn dành cho con mình, không phải là một mẫu hình người lớn nào đó ngoài trẻ, mà đó chính là những gì đang tồn tại trong chính chúng, những nhu cầu phát triển thường trực do chúng đặt ra, những nhiệm vụ mà chúng phải làm, những thắc mắc cụ thể mà chúng thường gặp. Người lớn cần phải dành thời gian cho mình để hiểu điều này, cũng như phải cho trẻ có thời gian để hiểu và học những cái mà tuổi của chúng cần.
Trẻ kiểm soát quá trình thụ đắc ngôn ngữ như thế nào?
Người lớn hiểu trẻ có nghĩa là người lớn đã tôn trọng hay biết tôn trọng trẻ, và ngược lại. Trẻ con không phải là người lớn. Trẻ con sẽ tự đặt ra chiến lược và tự tạo ra cơ chế phát triển ngôn ngữ của chính mình đối với việc học những thứ mà chúng cảm thấy quan trọng đối với chúng. Cái chúng cần học là những cái mới, dù rằng những cái mới này luôn là cái cũ hay không cần thiết đối với người lớn. Chiến lược và cơ chế phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng vậy. Thực ra thì trong quá trình phát triển, trẻ là những nhân vật hết sức sáng tạo, năng động, giàu nghị lực và năng lượng học hỏi hơn người lớn, và hơn những gì chúng ta tưởng, thậm chỉ là lầm tưởng về trẻ. Năng lực học hỏi nói chung và năng lực học ngôn ngữ nói riêng của trẻ là cái mà người lớn chúng ta không bao giờ có được và rèn luyện nên được.
Trẻ không hề có trong mình một ý niệm lo lắng về sự phát triển ngôn ngữ của mình như các bậc cha mẹ thường có về chúng. Ngôn ngữ chỉ là một công cụ để thực hiện một cái gì đó mà thôi. Khi một quả bóng lăn ra ngoài tầm tay trẻ, trẻ có thể khóc thét lên, nhưng việc khóc thét lên này không phải là vì sự khóc thét mà vì một nhu cầu đại loại là “muốn bố nhặt cho quả bóng ở ngoài sân”, hay “muốn mẹ kều quả bóng từ gầm giường ra”, hay “muốn anh với quả bóng mắc ở trên cây xuống”, hay “muốn chị vớt quả bóng ở dưới giếng lên”, vân vân và vân vân. Cha mẹ hãy để con cái mình trải nghiệm ngôn ngữ của chúng theo cách của chính chúng, dẫu rằng với con mắt người lớn những cách nói đó có thể là những cách áp dụng chưa hợp, cần phải chỉnh sửa. Tự bản thân trẻ sẽ dần tìm ra được một ngôn ngữ thích hợp để biểu đạt điều này. Chẳng có gì là lo lắng khi một đứa trẻ không phát âm được như người lớn, hay như những đưa trẻ hàng xóm, hoặc như một thần đồng ngôn ngữ ở trên ti vi. Cha mẹ chỉ nên và phải lo lắng khi con mình không thể phát âm được âm như chính chúng có thể nói mà thôi. Ở mỗi một gia đình, không ai có thể hiểu điều này hơn chính cha mẹ hay người chăm sóc của chúng cả. Vì rằng những người này là những người nắm vững biểu đồ diễn tiến ngôn ngữ của trẻ một cách rõ rệt và trung thực nhất.
Trẻ cũng không có suy nghĩ rằng có cái gì đó đang trông đợi chúng ở phía trước. Các bậc cha mẹ có thể đang tìm kiếm những cái có hoặc không có thể có trong ngôn ngữ của trẻ. Chúng ta nhiều khi không nhìn ra những cái mà trẻ đang có mà chúng ta lại có xu hướng nhìn ra những cái mà trẻ không có. Nhiều người cho rằng chỉ có một ngôn ngữ đúng ngữ pháp với một số lượng từ lớn và hệ thống quy tắc phức tạp thì mới là ngôn ngữ. Suy nghĩ như vậy rất có thể là suy nghĩ sai. Ngôn ngữ kì thực phức tạp hơn vậy. Trẻ có thể thích ngữ điệu biểu cảm của cô giáo dạy mầm non hàng xóm, có thể thích sử dụng ngôn ngữ cử chỉ của mấy anh choai choai ở trường để thay vào đó, thay vào những chỗ mà theo như người lớn đáng ra là phải thế này hay thế kia. Trên thực thực tế, rất có thể là trẻ đã từng gặp một cách biểu đạt nào đó ở đâu đấy mà cha mẹ không biết, trong khi ấy cha mẹ chỉ muốn trẻ biểu đạt theo cách của mình hình dung hay của mình có, mình biết. Trẻ có thể chỉ không biết rằng mô hình ngôn ngữ mà chúng đã sử dụng hay đang sử dụng đó có thực sự là thích hợp hay không thích hợp, đúng hay sai hay không mà thôi. Chúng luôn học cách sử dụng ngôn ngữ thực tế bằng một phép thử, một phép loại suy từ chỗ sử dụng này sang chỗ sử dụng khác.
Trẻ sử dụng chiến lược gì trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ?
Trong quá trình vận động phát triển từ tuổi ấu thơ, tất cả chúng ta đều học một cái gì đó theo một trong hai cách sau: Học bằng tiếp xúc hay làm trực tiếp theo kiểu vật lí (ví dụ như đi, bò, trườn). Học bằng tiếp xúc trí tuệ thông qua sự khái quát hoá hay loại suy những trải nghiệm đã có. Cách học thứ hai là cách học ngôn ngữ thường trực của trẻ. Cách học này diễn ra theo chiều tuần tự từ cái dễ lên cái khó, từ cái đã biết đến cái chưa biết, từ cái mơ hồ đến cái xác thực, từ cụ thể đến trừu tượng,…Điều này giải thích tất cả những gì mà trẻ có được về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, và ngữ dụng.
Lấy ví dụ. Ngôn ngữ của chúng ta có những âm dễ và có những âm khó phát âm. Trẻ sẽ học các âm dễ phát âm trước các âm khó. Trẻ bắt đầu lời nói của mình từ những tiếng bập bẹ. Những âm mà chúng bập bẹ là những âm dễ phát âm, không tốn nhiều năng lượng. Những âm này là những âm mà trẻ sẽ dùng để nói những lời đầu tiên trong đời mình. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, các âm phát âm bằng đầu lưỡi là i, ê, e luôn là những âm khó phát âm hơn các âm giữa lưỡi hay gốc lưỡi như a, ơ, ư. Trẻ sẽ nói được các âm a, ơ, ư trước các âm i, ê, e. Tương tự như vậy, trẻ sẽ nói được các từ có dấu nặng, dấu sắc trước các từ có dấu ngã, hỏi. Trẻ sẽ nói được các âm m, p, b trước các âm n, t, đ, v.v. Trẻ sẽ “ưa thích” cách nói ăm mơm hơn là ăn cơm. Trẻ sẽ “ưu tiên” sử dụng những cách nói ngắn hơn cách nói dài, v.v.
Dù trẻ học âm dễ trước âm khó, nhưng thực tế âm nào là dễ hay khó với các đứa trẻ khác nhau sẽ rất khác nhau. Mỗi đứa trẻ sẽ có chiến lược học ngôn ngữ của riêng mình. Điều quan trọng là có sự tiến bộ hay không trong kết quả của chiến lược học ngôn ngữ đó mà thôi.
Tương tự như vậy, trẻ sẽ học được ngữ nghĩa và cách diễn đạt của từ ăn, trước các từ xơi, dùng, đánh chén,…, ngữ nghĩa và các sử dụng của từ chết trước từ mất, hi sinh, từ trần, băng hà, ngoẻo,… Trẻ sẽ học được cách nói chim hót trước chim hót híu lo, chim hót líu lo trước chim hót líu lo trên cành, chim hót líu lo trên cành cây xà cừ trồng trước sân trường,… Trẻ sẽ học và nói được từ chim trước chim sẻ, chim bồ câu, chim chào mào. Trẻ sẽ học được từ gọi tên những con chim quen thuộc và điển hình trước những từ như chim đà điểu, chim cánh cụt,… Trẻ sẽ hiểu được rằng đã là chim thì phải “có cánh, biết bay” trước khi hiểu được rằng có những loài chim “không biết bay, không có cánh dài” như chim cánh cụt. Trẻ hiểu được rằng đã là quả thì phải “ăn được, có vỏ, có hạt nằm bên trong, và có hình tròn” trước khi hiểu được rằng có một số loài quả không như vậy. V.v.
Các Loài Chim Cảnh Hót Hay Nhất
Chim Hoạ mi màu lông không đẹp nhưng có viền mắt màu lam nên gọi là Hoạ mi. Để có một Hoạ mi hay phải chọn theo tiêu chuẩn:
* Trường: Thân, đuôi, mỏ, chân, mí mắt phải dài.
* Đoản: Các bộ phận trên ngắn đều. Loại này dễ dạn người hơn nhưng tiếng hót không hay bằng “tướng ngũ trường”.
Hầu hết Hoạ mi đều nhát người nên khó thuần. Muốn chim dạn phải nuôi lâu hay nuôi chim con. Hoạ mi có giọng hót rất hay:
* Giọng hồi: Tiếng hót đổ dồn từ cao xuống thấp.
* Giọng đổ: Tiếng hót có một độ cao, rung rất đều như tiếng rung cần violon (mã vĩ).
* Giọng ngắt: Tiếng hót nghẹn ngào, đứt quãng. Một dân chơi chim cảnh Hà Nội cho biết.
Sơn Ca:
Sơn ca nhỏ, chỉ đi không nhảy. Sắc lông từ vàng nhạt đến nâu đậm. Ngón chân sau khá dài, ăn sâu bọ và hạt. Mùa xuân kết đôi, đẻ từ 3 đến 5 trứng. Cuộc sống đôi trống mái rất thân mật. Cả hai đều ấp và nuôi con. Ngày nay người ta dùng thức ăn tổng hợp, chim vẫn khoẻ mạnh, dễ nuôi.
Sơn ca có tiếng hót rất hay, trong và cao. Sơn ca có tập tính bay vút lên cao rồi từ từ hạ cánh, vừa hạ cánh vừa hót từng hồi. Vì vậy lồng nuôi Sơn ca phải cao đến hơn một mét. Chim trống có ngù lông ở đầu, tiếng chim trống vang, trong – có ba thể âm gọi là tam thanh.
* Giọng thanh phải cao, trong, không chóe, không chói tai.
* Giọng bình phải đều, êm dịu, uyển chuyển, không đục.
* Giọng trầm ấm áp, không rè.
* Điệu tuyệt là tiết tấu rộn ràng, nhịp nhàng tươi sáng.
* Thế tuyệt là phong cách, lúc hót phải đậu nơi đỉnh cao, vươn cổ, rung cánh, mào dựng.
* Thì tuyệt: Hót lâu, không đứt quãng, không sợ khi có đối thủ.
Chích chòe:
Dân chơi chim cảnh mách: Người ta phân Chích choè theo sắc lông: Sắc đen trắng, sắc màu đen, sắc nâu đen khá đẹp, mang vẻ dáng văn nhân với cái đuôi dài tha thướt. Loại đen trắng hình dáng tuy không đẹp bằng loại nâu đen nhưng dễ thuần thục, dễ nuôi. Loại sắc đen trắng gọi là Chìa vôi.
Tiếng hót Chích choè than to, vang, đủ các giọng hồi, giọng đổ và hay hót, dạn người. Giọng than có đủ các cung bậc cao, thấp và trầm, khi rung như đàn violon.
Tuy giọng hót không dồn như Hoạ mi nhưng Chích choè than vẫn được xếp vào làng tứ đại danh ca vì thường hót suốt ngày, giọng thanh trong
Chích choè lửa có tiếng hót rất trong, hay nhất là lúc sáng sớm nhưng có nhược điểm là yếu, khó nuôi, khảnh ăn. Nó chỉ thích ăn sâu bọ, trứng kiến vì thế nên không được ưa chuộng như các thứ chim trên.
Thế Cường TH
Bạn đang xem bài viết Ngôn Ngữ Của Các Loài Chim – Kipkis trên website Topcareplaza.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!