Xem Nhiều 3/2023 #️ Kỹ Thuật Nuôi Yến Phụng Sinh Sản # Top 5 Trend | Topcareplaza.com

Xem Nhiều 3/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Yến Phụng Sinh Sản # Top 5 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Yến Phụng Sinh Sản mới nhất trên website Topcareplaza.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chuẩn bị

Giống

Vẹt mạnh, thường hay nhảy nhót trong chuồng, Vẹt trống hay hót, màu lông sáng sủa. Vẹt bệnh, lông xơ xác, màu tối không sáng, ít bay nhảy, thời gian thay lông kéo dài. Để theo dõi sức khỏe của Vẹt, hằng ngày xem phân của Vẹt, phân đen, cứng đặc, có một chút giống sáp trắng và có nước bao trùm bãi phân. Đó là dấu hiệu Vẹt khỏe mạnh.

Trái lại, nếu phân Vẹt dính lại ở hậu môn làm rụng lông Vẹt đó là dấu hiệu Vẹt đã bệnh nhiều, phải cách ly để lây qua các con khác. Chuồng không rửa lâu ngày có thể dẫn đến bệnh ở móng và chân Vẹt; đầu ngón chân sưng to, chân bị nấm, Vẹt đứng không vững. Vẹt mái bị bệnh kéo dài thời gian đẻ, thay vì mỗi ngày đẻ một trứng, có thể hai hoặc ba ngày mới đẻ một trứng, do đó mùa sinh sản bị xáo trộn kéo dài đưa đến việc Vẹt trống phá ổ trong lúc Vẹt mái ấp.

Lồng/Chuồng

Chuồng thường là chuồng hộp có ba ngăn, hai ngăn bìa để nuôi Vẹt đẻ, ngăn giữa để nhốt tạm Vẹt con sau khi bỏ ổ độ một tuần để cho Vẹt cha bón thêm cho đến khi Vẹt con ăn mạnh mới dời qua chuồng nuôi Vẹt con.

Chuồng thường làm bằng dây kẽm hàng chấn song: Đáy chuồng có hai phần, bên dưới là cái mâm bằng nhôm hoặc bằng kẽm để hứng phân và các vỏ hạt Vẹt ăn rơi vãi trong chuồng. Phần trên là một tấm vỉ bằng dây kẽm hàng chấn song. Đáy chuồng và tấm vĩ phải được rửa sạch sẽ hằng ngày.

Chế độ ăn uống

Chúng thích ăn rau quả như xà lách, rau cải, rau muống, bắp cải, táo ngọt, thậm chí cả một lát cam vàng cũng đủ cho chúng vui tươi. Ngoài ra chim Yến Phụng thích ăn thóc kết hợp với kê theo tỉ lệ 1:1. Trong thời kì sinh sản thì tỉ lệ thay đổi thóc 1: kê 1,5. Thỉnh thoảng cho ăn ngô và các loại rau như xà lách, rau muống…để cung cấp canxi khi chim non sắp chào đời được cứng cáp.

Chăm sóc

Chim Yến Phụng rất thích tắm nên hãy chăm chỉ tắm cho chúng hàng ngày. Khi tắm cũng là thời gian để bạn tiếp xúc với chim nhiều hơn. Khi tắm xong, Yến Phụng thường chọn nơi có ánh nắng chan hòa mà sưỏi ấm.

Trong mùa Vẹt đẻ, không được xê dịch chuồng, làm động ổ, Vẹt sẽ ngừng đẻ cho đến mùa sau.

Cho vẹt giao phối

Kinh nghiệm cho thấy, các nhà nuôi Vẹt đẻ Tây phương hay Đông phương cũng dùng mốc gọi là tuần trăng lên hay chính xác hơn là từ ngày mùng một đến ngày rằm (15) âm lịch.

Khi Vẹt trống mái sẵn sàng để ghép đôi, thì cứ bắt đầu tuần trăng xuống (từ 23 đến 30 âl) tháng 11 âm lịch hoặc tháng 12 âm lịch, đưa Vẹt trống và Vẹt mái lại gần nhau ở hai chuồng ngăn đôi do một vách ngăn.

Đồng thời cũng lót cho Vẹt mái cái ổ. Vẹt mái sẽ bắt đầu tha rác và xoáy ổ.

Bên chuồng kế bên thì Vẹt trống sẽ thi thố tài năng hót reo. Thường thì bắt đầu những ngày cuối tháng và bắt đầu tháng âm lịch, Vẹt mái sẽ nằm ép trên cầu, xòe cánh đuôi đồng thời ngoảnh cổ lên kêu riu ríu. Lúc đó bỏ trống vào.

Tuy nhiên cần nhớ là Vẹt đạp mái vào buổi sáng sớm và chạn vạng tối, không nên thả Vẹt trống vào buổi trưa, Vẹt mái không chịu.

Sau một hai ngày chịu trống (lúc này cũng qua đầu tháng âm lịch là tuần trăng lên, Vẹt mái sẽ đẻ, mỗi ngày một trứng. Mái tơ sung sức có thể đẻ 5, 6 trứng mới ấp, thường khi thấy trứng Vẹt mới đẻ mà có màu xậm, xanh đậm hơn mấy cái trứng trước, thì đó là trứng sau cùng, Vẹt bắt đầu ấp.

Ấp trứng

Như các phần trên đã nói, mỗi ngày sau khi đẻ phải lấy một cái muỗng lấy trứng ra cất một chỗ riêng. Khi biết bắt đầu ấp, thì vào sáng sớm hôm sau, lúc hừng đông 5, 6 giờ sáng cũng nhè nhẹ lấy hết số trứng đã có để vào lòng bàn tay và cùng lúc để vào ổ cho ấp. Cách làm này, trứng sẽ nở cùng một lúc sau 13 ngày và cũng vào hừng đông. Lúc đó Vẹt cha, Vẹt mẹ cũng bắt đầu kiếm ăn nên việc chăm bón cho con được phối hợp cùng lúc. Vẹt con nở một lượt, có sức mạnh đồng đều nên được chăm bón rất đều, Vẹt con lớn đồng đều nhờ đó mà kết quả đạt được rất cao (thường là 100% số Vẹt nở).

Trái lại, nếu mỗi ngày không lấy trứng ra cứ để nguyên trong ổ, do có sự cách biệt mấy ngày, nên có con nở trước được hôm trước đã lớn hơn con nở hôm sau. Sự tranh ăn không đều nên các con nở sau sẽ chết vì thiếu ăn. Lần đầu tiên ghép Vẹt đúng thời điểm ổ Vẹt đẻ thứ hai cũng sẽ ở vào tuần trăng lên.

Mỗi mùa cho Vẹt đẻ độ 4 ổ là vừa sức, thời gian sanh đẻ độ 180 ngày (6 tháng) sẽ tách rời Vẹt mái, cho ăn ít hoặc các thức ăn ít vitamin để Vẹt chuẩn bị đi vào thay lông.

Mùa sanh sản năm sau lại được tiếp tục như năm trước.

Xác định trống mái qua trứng

Nếu đôi Vẹt cùng lứa tuổi, thường Vẹt mái đẻ một trứng trống rồi ngày sau trứng mái. Mỗi ổ thường có hai trứng mái và hai trứng trống. Tuy nhiên, vì có nhiều cách ghép Vẹt không theo lứa tuổi, có thể trứng trống nhiều hơn trứng mái. Để phân biệt chỉ cần quan sát hình dạng của trứng Vẹt.

Trứng sẽ nở Vẹt trống có một đầu lớn, một đầu nhỏ và nhọn.

Trứng sẽ nở Vẹt mái sẽ có hai đầu tròn như nhau.

Cách điều chỉnh số lượng trống-mái

Theo thống kê:

Nếu hai con trống mái cùng một lứa tuổi được ghép đôi sẽ cho số Vẹt con trống mái bằng nhau.

Nếu Vẹt trống già hơn mái, số Vẹt con mái nhiều hơn Vẹt con trống.

Nếu Vẹt trống non hơn Vẹt mái, số Vẹt con trống nhiều hơn Vẹt con mái.

Cách đếm tuổi vẹt

Để biết tuổi của Vẹt, thường xem các vòng đeo ở chân, trên đó thường có ghi năm sinh của Vẹt.

Trường hợp Vẹt không có đeo vòng, thì còn cách đếm lông cánh của Vẹt (lông dài và lớn) để biết tuổi của Vẹt. Thêm 1 tuổi, vẹt sẽ có thêm 1 lông.

Tuy nhiên, cái cần biết là năm đầu và hai năm sau để ghép Vẹt theo ý muốn nói trên. Thời điểm ghép này rất quan trọng, nó sẽ quyết định thành quả của mùa sinh năm đó.

Đeo vòng cho vẹt

Các nhà nuôi Vẹt ở Âu châu, có lập Hội nuôi Vẹtvà sản xuất loại vòng đeo ở cổ chân của Vẹt, trên đó có khắc năm sinh và chữ tắt của Hội. Khi gia nhập Hội, mỗi nhà nuôi Vẹt được cung cấp một hộp khoen nhỏ và cái kềm bấm số.

Ở Việt Name cũng có nhiều người cho Vẹt đeo vòng, loại bằng ny-lon có màu khác nhau để đánh dấu Vẹt của nghệ nhân đó sản xuất.

Muốn đeo khoen cho Vẹt, từng bước sẽ thực hiện như sau:

Vẹt con được 7 ngày hay 8 ngày tuổi, bắt Vẹt ra cầm ngửa tay trái, lấy ngón tay trái ngón trỏ chụm ba ngón trước của chân Vẹt vào nhau và cho lọt vô cái vòng cầm ở tay mặt đưa vào.

Sau đó sẽ lấy ngón tay trái đè ngón chân sau của Vẹt vào với phần chân của Vẹt. Tay mặt từ từ cho cái vòng qua khỏi móng của ngón chân sau.

Vòng được đeo vào chân Vẹt. Trả Vẹt vào ổ trở lại.

Hướng Dẫn Kỹ Thuật Nuôi Yến Phụng Sinh Sản

Ngày đăng: 2015-04-12 16:59:08

XÂY DỰNG CHUỒNG NUÔI CHIM

Chuồng nuôi yến phụng sản thường được làm theo hình hộp chữ nhật, tuỳ theo số lượng chim nuôi mà ta làm chuồng lớn hay nhỏ sao cho mật độ phân bố thích hợp. Chuồng được chia làm 2 phần : phần nhà và sân

1. Phần sân nhà nuôi tổ yến:

Phần sân được nối liền với phần nhà , phần này chiếm 2/3 diện tích chuồng, được bao bọc phía trên và xung quanh bằng lưới 1 phân. Chiều cao của khung lưới phải trên 2 m. Yến phụng rất sạch sẽ thích tắm, vì vậy trong sân ta cần thiết kế những rãnh nước hay hồ nhân tạo để chim tắm và uống nước, ngoài ra phải bố trí nhiều sào dài, cây cối để làm chỗ đậu cho chim. Chim yến phụng rất thích chơi đùa đánh đu, leo trèo bay nhảy. Chọn một chỗ thích hợp nào đó trong sân đặt máng ăn cho chim.

2. Phần nhà nuôi tổ yến:

Phần nhà chiếm khoảng 1/3 diện tích chuồng, được xây bằng gạch, lợp mái sao cho thật kín không để kẻ hở để chim thoát ra ngoài đồng thời tránh các tác nhân bên ngoài có thể ảnh hưởng đến yến. Phần nhà là nơi chim trú mưa, trú nắng và sinh sản do đó các tổ đẻ phải đặt trong này, các tổ chỉ cần máng vào vách tường và chia đều khoảng cách các tổ với nhau .

3. Tổ đẻ tập thể của chim yến :

Là 1 hình hộp dựng đứng, bề ngang 12 cm, chiều cao 20 cm. Mặt đáy khoét lòng chảo đường kính độ 9 cm để trứng tụ vào cho chim mẹ dễ ấp. Phần trên là nắp đạy có bản lề đóng mở để dễ kiểm soát chim và vệ sinh tổ. Mặt trước khoét 1 lổ tròn đường kính 4 cm để chim ra vào, dưới cái lỗ tròn đó gắn thẳng góc với tổ 1 khúc cây tròn, để chim đậu trước khi vào tổ. Ưu điểm của kiểu tổ này là chim non khó lọt được ra bên ngoài .

CHĂM SÓC CHUỒNG TRẠI

1. Cung cấp lương thực :

Mỏ Yến phụng khoằm, sắc nhọn, rất thích hợp với việc nhằn gặm các loại hạt ngũ cốc, hạt cỏ… như kê, lúa, lúa mì, hạt hướng dương, hạt yến mạch…

Yến phụng rất thích rau vì vậy phải cho chim ăn thêm rau xanh như: xà lách, rau muống. Rau cho chim ăn cần lựa và ngâm rửa kĩ nếu không chim sẽ bị bệnh tiêu chảy!

Ngoài rau, người nuôi Yến phụng còn phải bổ sung khoáng cho chim để đảm chất dinh dưỡng cho chim khỏe mạnh.

Khi nuôi nhiều chim ta phải bố trí máng ăn sao cho đủ dài để chim được đứng ăn thỏa mái tránh giành giật. Đồng thời phải cung cấp nước uống đầy đủ cho chim.

2. Vệ sinh – Chăm sóc :

Nuôi Yến Phụng tuy không dơ bẩn như gà, vịt nhưng chỗ nào có đồ ăn rơi vãi là có ruồi bọ, vì vậy ta phải quét dọn chuồng trại hằng ngày .

Ngoài ra người nuôi phải thường xuyên theo dõi sức khỏe của bầy chim.

Thường xuyên kiểm tra lưới bao quanh sân có chổ hở nào không để tránh chim bay ra ngoài.

Tổ nào có lứa chim ra ràng sau khi bắt con ra phải rửa sạch sẽ, đem phơi nắng xong đem treo vào chỗ cũ.

Rau cho chim ăn phải rửa sạch sẽ, tránh cho chim bị bệnh đường ruột.

Máng ăn, máng uống luôn được cọ rửa sạch sẽ, luôn thay nước mới.

Vào mùa mưa bão, chim đều trú trong nhà, vì vậy ta phải lo chỗ đậu và ăn uống cho chim ngay trong nhà.

3. Kiểm soát ổ đẻ :

Chim giống thả vào chuồng tập thể lần đầu, nên chọn chim tơ có cùng lứa tuổi, số lượng trống mái bằng nhau, sau này cỡ năm bảy năm ta loại bỏ 1 lần và thay lứa mới vì lúc này chim đã già nên sinh sản kém.

Tuyệt đối không di dời vị trí tổ đẻ vì sẽ làm cho chim bị sốc, và có thể sẽ làm sốc lây những cặp chim khác.

Nhiệm vụ chính của người kiểm soát ổ đẻ là kiểm tra loại bỏ trứng không cồ, rồi tùy theo đó dồn trứng, dồn con sao cho thích hợp, lập sổ theo dõi chất lượng sinh sản, sức khỏe của từng cặp chim.

Khi chim con ra ràng thì bắt nhốt riêng để đem bán sau đó vệ sinh tổ đẻ để chim cha mẹ chuẩn bị đẻ lứa sau .

Trích nguồn: ./.

TIN TỨC KHÁC :

Kỹ Thuật Nuôi Chim Công Sinh Sản

Chim Công là loài chim có bộ lông đẹp nhất trong tất cả các loài chim và được sếp là 1 trong 10 loài chim đẹp nhất hành tinh . Tại Việt Nam chim công là loài chim quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam ( Nhóm 1B ) .

Trước đây chim công phân bố ở hầu hết các cánh rừng trên cả nước . Ngày nay do việc săn bắn , tàn phá rừng , Chim Công còn lại trong tự nhiên với số lượng rất hạn chế .Chủ yếu mọi người chỉ còn nhìn thấy trong các trung tâm bảo tồn quốc gia, Vườn thú Hà Nội , thảo Cẩm Viên Sài Gòn vvv )

Do chim công là loài chim đẹp và quý hiếm nên nhu cầu chơi , nuôi loài này làm cảnh trong 1 số hộ gia đình có điều kiện kinh tế , các khu vina , nhà vườn , khu du lịch sinh thái ngày càng tăng . Nguồn cung cấp hiện nay chủ yếu vẫn là nguồn cung bất hợp pháp ( do săn bắt , nhập lậu , một số cá nhân nuôi sinh sản đơn lẻ không đựợc cấp phép .vv)

Để đáp ứng nhu cầu về con giống cho thị trường một cách ổn định và hợp pháp .Việc thành lập trại nuôi sinh sản loài chim trên là rất cần thiết . Nó không chỉ đem lại giá trị kinh tế ( từ việc bán con giống ) . Mà còn góp phần tích cực vào công tác bảo tồn nguồn gen về loài chim – gà quý hiếm này .

Qua nghiên cứu nuôi thực nghiệm : Anh Trần Nhữ Giáp ( nhà điểu học ) một người chuyên nghiên cứu về các giống chim , gà quý hiếm trong sách đỏ Việt Nam và thế giới đã đưa ra những kết quả rất khả quan về việc nuôi sinh sản theo mô hình công nghiệp loài chim này . :

. Hiện nay có 2 loài công được nuôi phổ biến tại Việt Nam ( Công Lục – hay công Má Vàng ) Và Công Lam ( công Ấn Độ : Công xanh , Công trắng )

Về cách nuôi hai loài công này cơ bản không khác nhau . Công Ấn Độ được du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam từ nhiều năm trước , đến nay đã thích nghi tốt với điều kiện môi trường khí hậu tại Việt Nam .

2 ) Một số đặc điểm cơ thể

Khi chim trưởng thành ( chim trống ) chiều dài cơ thể có thể đạt tới 2,1 m .Trong đó bộ đuôi có thế tới 1,5m (ở thời kỳ 3 – 5 năm tuổi) . Trọng lượng có thể đạt từ 8 – 12 kg / con . Chim trống thường có biểu hiện xoè đuôi ( múa ) vào thời kỳ đầu của chu kỳ sinh sản ( tháng 12 âm lich . Kéo dài cho đến hết chu kỳ đẻ trứng của chim mái ( tháng 6 âm lịch )

. Đây là thời gian mà người nuôi chim công sẽ được ngắm vẻ đẹp hoàn mỹ nhất của loài chim này ( từ cử chỉ , hành động , sắc lông ) . Sau đó Chim Công bắt đầu có hiện tượng rụng đuôi và thay lớp lông mới cho mùa sinh sản tiếp theo .

Với Chim mái , trọng lượng , chiều dài cơ thể nhỏ hơn , màu lông cũng không sặc sỡ và đẹp như chim trống

Cách phân biệt chim trống và chim mái :

Phân biệt chim trống và chim mái dựa vào 1 số đặc điểm sau : Sắc tố lông . chiều dài đuôi , màu da chân , chiều cao của chân , Chiều cao cổ , Số lông chính dựng trên mào . Hoặc dựa vào cách so sánh trọng lượng , kích thước chiều dài cơ thể .

Cách phân biệt rõ nhất là khi chim ở độ tuổi từ 18 tháng tuổi trở lên . Lúc này chim trống có biểu hiện rõ nhất về sự thay đổi ngoại hình ,

Khi chim còn nhỏ ở độ tuổi từ 1 – 5 tháng tuổi rất khó phân biệt trống , mái .Trừ 1 số ít người có kinh nghiệm nuôi lâu năm và nghiên cứu chuyên sâu về chim công mới có thể phân biệt được dựa vào những kinh nghiệm sẵn có và cảm quan nghề nghiệp .

Chim công rất thông minh , rạn người , nếu nuôi thuần và chăm sóc chim từ nhỏ, chim công có thể thả ra mà không bay mất . Tuy nhiên trong điều kiện nuôi sinh sản tập chung theo mô hình công nghiệp chim công vẫn được nuôi trong lồng lớn để tiện theo dõi và quản lý .Tránh các rủi ro có thể sảy ra : mất trộm , bị các loài khác đuổi bắt dẫn đến hiện tượng chim hoảng loạn và bay đi .

3 ) Kỹ thuật làm chuồng trại :

Các vật liệu làm chuồng nuôi Chim Công khá đơn giản chủ yếu được dùng : Lưới mắt cáo ( lưới thép B40 ) quây sung quanh , lưới cước ( làm phần lợp trên lóc ). Một số vật liệu làm mái che khác ( Tấm lợp Proxi mămh . Tâm lợp nhựa ) . Hoặc có thể tận dụng các nhà xưởng , kho có sẵn sau đó cải tạo lại . Nền chuồng thường được dải cát ( loại cát Vàng ) . Để tiện làm công tác vệ sinh , đảm bảo khô , thoáng , hạn chế các loài giun sán ,. Nền cát cũng sẽ đảm bảo cho lông đuôi công không bị dính bẩn mỗi khi di chuyển , đồng thời là chỗ để cho công tắm cát ( tắm nắng ) làm sạch bộ lông .

Với quy trình nuôi công nghiệp : Một ô chuồng tiêu chuẩn đươc thiết kế như sau :

Rộng ngang : 3 ,5 – 4m . Dài 5 – 6 m , Cao 2,7 – 3m . Với diện tích này có thể nuôi từ 4 – 6 cá thể chim trưởng thành ( tỉ lệ 1 đực + 1 cái , hoặc 1 đực + 2 cái ) .Hoặc có thể nuôi được : 10 – 15 cá thể chim công ( 6 – 12 tháng tuổi ) .

Tuỳ thuộc vào điều kiện thực tại của trại nuôi có thể thiết kế theo các kích thước rộng , hẹp ngang khác nhau . Miễn sao đảm bảo các yếu tố : Thoáng về mùa hạ , ấm về mùa đông .

Chim Công trong tự nhiên có sức đề kháng tốt có thể chịu được mưa tạt , gió lùa .Tuy nhiên trong điều kiện nuôi nhân tạo ta nên làm một phần mái che để chim chú ẩn sẽ tốt hơn

Về phần lóc chuồng nuôi có thể lập toàn phần ( trong nhà xưởng ) . Hoặc lập bán phần để đảm bảo cho chim có chỗ chú ấn khi mưa tạt , gió lùa ,.thời tiết thay đổi .vv .

Chim được đánh mã số ( vòng chân ) để tiện theo dõi , tránh hiện trạng đồng huyết )

… Có thể làm nhiều ô chuồng sát nhau ( sử dụng vách ngăn : lưới thép B40 ) .

* Chú ý : không sử dụng vách ngăn bằng luới thép nhỏ , hoặc cuớc li lông vì chim sẽ mổ loại vật liệu này để ăn , dẫn đến hiện tượng tủng , thắt riều

Nên có 1 ô chuồng nuôi ( chuồng phụ ) đẻ tách riêng những cá thể chim bị bênh cho tiện công tác theo dõi , điều trị

4 ) Kỹ Thuật ấp nở

Chim Công sau 2 năm nuôi là đạt đến độ tuổi trưởng thành và bắt đầu có khả năng sinh sản . Tuy nhiên phải từ năm thứ 3 ,. thứ 4 trở đi khả năng sinh sản của chim mới ổn định và cho tỉ lệ ấp nở tốt hơn cả ,

Chim mái bắt đầu đẻ từ đầu mùa xuân đến cuối mùa hạ . Số trứng bình quân :

Công Má Vàng ( 8 – 12 trứng / năm )

Công Ấn Độ ( 25 – 35 trứng / năm )

Thời gian ấp ở trung bình : 26 – 27 ngày

Có 3 cách ấp nở cơ bản : + Để chim mái tự ấp ( tỉ lệ thành công : 40 – 50 % )

+ Dùng chim , gà khác ấp ( gà mái , Ngỗng , Ngan vv ) . Tỉ lệ thành công : ( 50 -60 % )

+ Sự dụng máy ấp :

Cách tốt nhất và cho tỉ lệ ấp nở thành công cao nhất hiện nay là dùng máy ấp công nghiệp ( dùng cho việc ấp trứng gà , trứng vịt ) . Nếu đảm bảo được chất lượng phôi trứng tốt , thực hiện đúng quy trình kỹ thuật có thể đạt 85 %

Vườn Chim Việt đã nghiên cứu thực nghiệm ấp nở Chim công tại Việt Nam cho thấy cách duy trì nhiệt độ ấp nở ổn định tốt nhất như sau :

Trứng sau khi đẻ bảo quản nơi thoáng mát .

Thơì gian chờ để cho vào lò ấp tối đa :

Từ ( 7 – 10ngày ) Với trứng đầu vụ

Từ (3 – 5 ngày ) Với trứng đẻ trung , cuối vụ

* Nhiệt độ ấp :

Từ 1- 7 ngày đầu : Nhiệt độ lò ấp duy trì : 37 – 38,2 C

Từ 7 – 15 ngày : 36,5 – 37 độ C

Từ ngày thứ 15 – 20 : Nhiệt độ : 36,2 – 36 ,5 độ C

Từ ngày 20 – 27 : Nhiệt độ ổn định ở : 36, 2 Độ C

Độ ẩm : 60 – 70% . Có thể điều chỉnh độ ẩm tuỳ theo thời kỳ ấp nở ( Giảm độ ẩm với trứng đầu , giữa vụ , tăng độ ẩm với trứng cuối vụ )

5 ) Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng .

Chim Công là loại ăn tạp : thức ăn chủ yếu : thóc , ngô , kết hợp với cám tổng hợp dung cho gia cầm .Ngoài ra cho ăn thêm rau xanh .

Sử dụng loại máng ăn , uống dùng cho nuôi gà , vịt để đựng thức ăn , nước uống cho

chim . Thay nước định kỳ 1 lần / ngày ( nếu không có hệ thống uống tự động ) . Thường xuyên vệ sinh máng ăn , uống để trách mầm bệnh gây hại choc him ,

Chim non sau khi lấy từ lò ấp ra được nuôi trong chuồng nhỏ . Nền chuồng được lót giấy báo , hoặc xốp Khi chim mới nở ra duy trì nhiệt độ chuồng nuôi ổn định : 25 – 30 độ C . Khi chim đựợc 20 – 30 ngày tuổi giảm nhiệt độ xuống 24 – 26 độ C.

Sau 30 ngày tuổi ổn định nhiệt độ ở 18 – 20 độ C .Lúc này có thể sử dụng loại chuồng lớn hơn , nền chuồng có thể sủ dụng lưới mắt cáo nhỏ

Chim công mới nở ra có khả năng tự ăn như gà con ,thức ăn sử dụng 100% cám tổng hợp dùng cho gà

Sau 30 ngày tuổi có thể cho ăn kết hợp thêm với ngô , thóc nghiền ( Tỉ lệ cám tổng hợp 70 % ,thực phẩm bổ sung : 30 % ). Sử dụng các loại rau xanh thái nhỏ ( rau muống , rau cải , rau ngót vv )

Khi chim càng lớn tỉ lệ cám tổng hợp sẽ điều chỉnh theo xu hướng giảm dần : Đến khi chim đạt từ 6 – 8 tháng tuổi có thể nuôi ngoài chuồng lớn với nền chuồng bằng cát như đã thiết kế ở mục 3 ) .Lúc này tỉ lệ cám tổng hợp bổ xung chỉ còn khoảng 50 % là hợp lý . Không nên cho ăn quá nhiều cám tổng hợp chim sẽ mất dần sức đề kháng tự nhiên , đồng thời giảm sắc tố bóng đẹp của màu lông .

Đến khi chim đạt độ tuổi trưởng thành dùng cám tổng hợp của gia cầm ( Cám dùng cho gà đẻ ) . Kết hợp với thực phẩm bổ xung : Ngô , thóc nguyên hạt . Tăng cường các loại rau xanh , cho ăn thường xuyên để chim tăng sức đề kháng cũng như có bộ lông đẹp nhất

.

6 ) Các bệnh thường gặp , cách phòng , trị bênh cho Chim Công :

Khi chim non nở ra người nuôi sử dụng một số kháng sinh để phòng trị bệnh cho chim giống như việc phòng, trị bệnh cho gà con

Ví dụ – Từ 1 đến 2 tuần tuổi ngừa bằng : Streptomcin

– Từ 3 – 5 tuần tuổi ngừa bằng : pox Fowl .vv

( cho uống trực tiếp , hoà thức ăn , nước uống , chủng ngừa . vv ,theo tỉ lệ ghi trên bao bì )

Các bệnh thường gặp khi nuôi Chim Công :

+ Bệnh do nhiễm khuẩn đường ruột : ( phân xanh , phân trấng vv ) . Bênh do nhiễm khuẩn ECOLY

+ Bệnh tụ huyết trùng , xã cánh , sù lông , teo chân

+ Bệnh sưng mặt , phù đầu

+ Bềnh về đường hô hấp ( Sưng phổi , thở khò khè )

+ Bệnh do kí sinh ngoài da ( ghẻ ,) : Sử dụng thuốc đặc trị ghẻ của chó , mèo phun trực tiếp lên chim ( tránh phần mắt )

+ Bệnh giun , sán ở Mắt dẫn đến hiện tượng mù mặt ( trích ngừa bằng kháng sinh đặc trị )

* Để tránh dủi do trong quá trình nuôi .Người nuôi nên tiêm phòng cho chim các loại vácin cho gia cầm theo định kỳ mùa , hoặc theo độ tuổi ( ví dụ GUM , H5N1 ) vv

Về cơ bản cách phòng , trị bệnh cho Chim Công giống như việc phòng và trị bệnh cho gia cầm .Hoàn toàn có thể sử dụng các loại thuốc kháng sinh của gia cầm đang bán tạị các tiệm thuốc thú y để để điều trị cho chim theo chỉ dẫn ghi trên bao bì .Hoặc sử dụng liều lượng trị = 1,5 – 2 lần liều lượng phòng

( lưu ý nên mua thuốc của những nhà sản xuất , có uy tín trên thị trường để tránh mua nhầm hàng giả kém chất lượng ). Hiện Vườn Chim Việt đang sử dụng thuốc chủ yếu do TW 1 sản xuất và phân phối

.Một lợi thế trong công tác phòng và trị bệnh là do Chim Công có bản chất là động vật hoang dã ,nên khi nuôi ít gặp bệnh và cách điều trị cũng đơn giản hơn

Trong quá trình nuôi nên chú ý đến việc vệ sinh truồng trại , phun thuốc khử trùng định kỳ tại chuồng nuôi và khu vực phụ cận . Theo dõi diễn biến của thời tiết để có biện pháp bảo vệ chuồng nuôi tốt nhất

6 ) Về Giá Trị Kinh tế :

Do chim công hiện nay chủ yếu được nuôi làm cảnh , đối tượng nuôi là những hộ gia đình , các trang trại , khu vina nhà vườn .Đối tượng khách hàng là những người có thu nhập cao ,kinh tế ổn định . Ngoài ra chim công chủ yếu phục vụ cho các khu du lịch sinh thái , trung tâm bảo tồn . vv

Do nguồn cung trên thị trường Việt Nam còn rất hạn chế , vì vậy giá thành của loài chim này khá ổn định và ở mức cao

Giá thị trường năm 2009 ( theo khảo sát của Vườn Chim Việt )

Chim Công loại

+ 2 – 3 tháng tuổi : 3 triệu vnđ / cặp

+ 4 -6 tháng tuổi : 4 triệu vnđ / cặp

+ 7 – 9 tháng tuổi : 6 triệu vnđ / cặp

Loại trưởng thành đang đẻ : 15 – 20 triệu vnđ / cặp

Với khả năng sinh sản tốt , tỉ lệ ấp nở thành công khá cao .Bình quân 1 chim mái mỗi năm có thể thu về từ 20 – 30 triệu vnđ từ việc bán con giống

Chi phí thức ăn , thú y , nhân công , khấu hao chuồng trại không đáng kể ,rủi ro thấp , giá thành ổn định và có xu hướng tăng trong những năm tới . Không bị cạnh tranh bởi nguồn cung thị trường vì đây là mô hình hoàn toàn mới ở Việt Nam

Kết luận : Nuôi Chim Công không chỉ là một nghề mới mang lại giá trị kinh tế cao ( vào loại siêu lợi nhuận trong các loài vật nuôi hiện nay của Việt Nam ) . Bên cạnh đó còn góp phần tích cực vào công tác bảo tồn nguồn gen loài chim , gà quý hiếm nói riêng , động vật hoang dã , động vật quý hiếm nói chung ,

.

Tài liệu trên đươc trích tóm tắt từ mục 3 chương V ) . Trong đè tài nghiên cứu khoa học về kỹ thuật nuôi sinh sản các loài chim gà quý hiếm ,

Cuốn sách gồm 560 trang giới thiệu về kỹ thuật , quy trình nuôi sinh trưởng , sinh sản , thuần hoá của 50 loài chim , gà quý hiếm trong sách đỏ Việt Nam và thế giới

dự kiến sẽ được phát hành ra thị trường vào tháng 11 năm 2010

Tác giả :Trần Nhữ Giáp

​ Cơ sở 1 : Xã Nhân Thịnh _ Huyện Lý Nhân – Tỉnh Hà Nam Cơ sở 2:Thôn 1B- Xã Đông Mỹ-Thanh Trì- Hà Nội Liên hệ mua hàng : Tại Hà Nội : Thôn 1B-Xã Đông Mỹ-Thanh Trì -Hà Nội Mobile : 0977774677 hoặc 0942712345 Hoặc 0948833556http://vuonchimviet.com Emai :vuonchimviet@gmail.com

Kỹ Thuật Nuôi Cá Cảnh Sinh Sản

Đa số người nuôi cá cảnh sinh sản thường thích việc “ép cá”, tức là làm cá đẻ theo cách họ muốn, có thể tự nhiên hoặc không tự nhiên. Cá đẻ tự nhiên thì dễ nhưng chăm sóc cá con đôi lúc không dễ, ép cá đẻ không tự nhiên cũng không khó nhưng cần phải biết cách để đảm bảo “mẹ tròn con vuông”.

Một nét quyến rũ của việc nuôi cá cảnh là có nhiều loài cá có thể nhân giống khi nuôi. Nhân giống cá cảnh gần như là bí quyết của mỗi người kinh doanh cá cảnh. Qua hàng chục năm kinh nghiệm, nhiều nghệ nhân chơi cá cảnh đã đúc kết một số kinh nghiệm, mà chắc chắn, các “ngón nghề” công phu họ vẫn giữ cho riêng mình.

Người ta có thể chia sự sinh sản của cá thành hai giai đoạn: các sự kiện dẫn đến sự thu tinh và sự chăm sóc cá bột. Người nuôi cá, ở hai giai đoạn dó, cần tác động đến sự chọn lựa và đặt điều kiện cho cá trưởng thành; chuẩn bị bể nuôi cá sinh sản, trông nom sự thụ tinh và việc nuôi cá bột.

Muốn nuôi cá cảnh cho sinh sản, bạn cần phải nắm vững những điều cần biết sau đây:

1. Phải biết phân biệt giới tính

Cá cũng như chim, cách phân biệt trống mái cũng giống với loài thú. Loài thú dù to như con voi hay nhỏ như con chuột nhắt, đực cái khác nhau ở bộ phận sinh dục của nó.

Với chim chóc, đa số giống, trống mái khác nhau ở sắc lông và vóc dáng. Về thân mình, con trống lớn hơn con mái. Về màu sắc, chim trống đẹp hơn chim mái. Giới tính của cá thì khó phân biệt hơn, hầu hết trông con nào cũng giống con nào. Muốn nuôi cá để sinh sản thì điều trước tiên đòi hỏi phải biết phân biệt giới tính của từng giống cá mà bạn đang nuôi. Nhưng điều này không hề dễ. Chỉ những ai nuôi cá lâu năm, nhiều kinh nghiệm trong nghề mới biết được.

Một sự phân biệt dễ nhận thấy nhất là cá trống thường có thân mình thon dài, trong khi mình cá mái lại bầu bĩnh hơn. Tuy vậy, với chi tiết này không thôi, không ai dám đoán chắc một trăm phần trăm là đúng! Để đạt sự chuẩn xác, ta còn phải quan sát kỹ các bộ phận khác của cá như vi, bụng, hậu môn (nơi đây cũng là bộ phận sinh dục của cá), đồng thời còn quan sát cả cách bơi lội của chúng mới dám đi đến kết luận cuối cùng.

Về cách phân biệt giới tính, có một số giống cá do có những đặc điểm riêng biệt nên giúp ta dễ phân biệt hơn, ví dụ như cá lia thia, cá hồng kim…

Với cá lia thia, cá trống bình thường cũng có màu sắc như cá mái, nhưng khi sung lên, toàn thân nó đỏ ửng màu tím hồng đặc trưng rực rỡ, trong khi cá mái lúc nào thân mình cũng lợt lạt, nếu sợ hãi còn nổi sọc dưa dọc theo thân mình. Còn hồng kim trống có thuỳ dưới ở đuôi mọc dài ra như lưỡi kiếm rất dễ nhận. Chính vì có đặc điểm dễ nhận thấy này mà hồng kim được mang một tên khác là “cá kiếm”.

Với những giống cá cảnh khó phân biệt được giới tính rõ ràng, từ trước đến nay chủ nuôi chỉ còn cách là để tâm theo dõi qua nhiều cách sau đây:

Cách dễ nhất là thấy cá mái trong mùa sinh sản bụng căng to, vì bên trong chứa nhiều trứng, nếu bụng màu trắng thì trứng còn non, mái mới cấn chửa, nếu bụng trứng đỏ trở nên màu vàng, bụng to hơn, cá lội chậm chạp là lúc bên trong chứa nhiều trứng đã già. Lúc này có con nào lẽo đẽo cặp kè theo cá mái chính đó là cá trống.

Bình thường trong hồ cá, dù cùng một giống, mỗi con vẫn lo kiếm ăn mỗi hướng, không con nào quan tâm đến con nào. Nhưng, vào mùa sinh sản thì cá trống rượt đuổi theo cá mái để bắt cặp với nhau. Từ đó, lúc nào chúng cũng như bóng với hình, kề cận bên nhau.

Khi nhận đúng cặp trống mái thì ta dùng vợt vớt chúng ra nuôi riêng cho sinh sản. Và từ đó trở về sau, với cặp cá đó bạn chắc chắn không còn lẫn lộn giới tính của chúng nữa. Cặp trống mái đó vẫn cho bắt cặp với nhau vào lứa sau, không cần phải thay đổi, nếu thấy chúng vẫn sinh đẻ tốt.

2. Phải nắm vững cách sinh sản của từng giống cá

Trong đời sống hoang dã, giống cá cảnh nào cũng sinh sản tốt. Thế nhưng, khi bắt nuôi trong hồ thì nhiều giống bỏ tập tính tự nhiên này, hoặc có đẻ nhưng lại nuôi con kém. Mặt khác, gần như mỗi giống cá lại có cách sinh sản khác nhau, nên bạn cần phải biết rõ để tuỳ từng trường hợp mà xử lý cho đúng cách, có như vậy mới thu được nhiều lợi.

Thực tế cho thấy có giống cá cảnh làm tổ bằng bọt nước rồi gắn trứng lên đó để chờ ngày nở. Có giống đẻ trứng vào cọng rong, vào rễ lục bình. Có giống lại để trứng lên những tấm đã phẳng … Nhờ nắm vững được điều đó, nên khi các sắp đẻ, ta có thể “lót ổ” cho nó tạo điều kiện thuận lợi cho cá sinh sản.

Đó là trường hợp đẻ trứng, còn việc nuôi con thì gần như mỗi giống cũng có cách riêng:

Có giống cá trống không cho cá mái nuôi con, và giành lấy phần việc khó khăn này cho riêng mình.

Có giống khi con nở ra là cá mẹ ăn con không thương tiếc, khiến cá con nở nhiều mà không sống được bao nhiêu (nhờ biết vậy mà ta tìm cách ngăn ngừa)

Có giống cá cảnh không đẻ trứng mà đẻ thẳng ra cá con, và con tự sống, không cần đến sự nuôi dưỡng cũng như bảo vệ của cá cha mẹ.

Có giống tới giờ đẻ trứng phải cần nhiều trống “ép” một mái thì việc đẻ trứng mới suôn sẻ được.

Có giống cá cảnh có thói quen chỉ đẻ ban ngày, như cá Dĩa. Có giống chỉ đẻ ban đêm, như cá Tàu, và nhiều giống cá lại đẻ bất kỳ giờ giấc nào trong ngày.

Kể ra biết được những điều này rất thú vị và có lợi.

3. Các phương thức sinh sản

Loại cá đẻ thai trứng:

Thường là loại cá họ lành canh (coilia) hay cá mào gà, họ cá trổng (Engraulidae) bộ cá trích (Clupeiformes), có giá trị kinh tế… Trứng thụ tinh trong bụng con cái, con cái trực tiếp đẻ khi trứng trưởng thành, cá con biết hơi liền. Khi con cái có thai, bụng đã to, tách nuôi riêng. Cá gần sinh, để vào một cái lồng đặc chế trong bể sinh sản. Đáy lồng có nhiều mắc lưới để cá con chui ra thoải mái qua bể kính. Có thể treo nhiều lồng tùy loài cá sinh nhiều ít. Giản dị hơn, người ta đặt tấm lưới nilông ở đáy hồ để cá con chui xuống đó núp (áp dụng cho cá bảy màu, đuôi kiếm, cá ánh trăng, mã lệ…).

Khi nhiệt độ hơn 180C, thả vài trăm con cá giống ra hồ, thả rong che bớt ánh nắng cho chúng, tập chúng quen dần với môi trường mới. Thường thường, con cái đẻ mỗi tháng một lần, mỗi lần từ 50 – 200 con.

Cá đẻ trứng trên đá cuội hoặc trên rong (như cá hèm, cá bốn sọc, cá gần họ cá chép, ngựa vằn, tua vàng)

Đây là loại cá tự tìm bạn tình, thả cá giống chung vào, chúng tự hoàn thành công việc sinh sản. Thường thì tỉ lệ 1 đực – 1 cái, nhưng có loại 2 đực – 1 cái thì nên để 3 – 5 con cá giống vào hồ sinh sản. Hồ chỉ chừng 30 x 20 x 15 cm, trải dưới một tấm nilông có tính đàn hồi, bốn góc để vài bó rong vàng, đáy hồ thả đá cuội, cho thiết bị bổ sung oxy, giữ nhiệt độ 24 – 28 độ C trong hồ. Trứng thụ tinh bám vào rong hay đá cuội. Sau khi cá sanh, có thể bắt cá đực, cá cái trở lại hồ dưỡng, hồ cũ hay nuôi riêng hồ khác cũng được. Hai lần cho đẻ nên cách nhau 7 – 10 ngày. Cá sinh sản được khi đạt 6 – 7 tháng tuổi.

Loại cá đẻ trứng trong nước bọt

Họ cá đá đa số sinh sản trong nước bọt (cá đá Thái Lan, ngựa trân châu tam giác, cá hôn môi, cá lệ hồng, lệ ngũ sắc, rồng lượn xanh…) tự chọn bạn tình rồi đẻ trên bọt nước, trứng sinh ra con cũng trên bọt nước. Hồ sinh sản cỡ 50 x 50 x 35 cm, thả rong hay cải lá xanh trên mặt nước, cho một cặp cá giống vào. Con đực nâng cọng rong hoặc nhả bọt dưới rong, hai cá quấn quít nhau trên đám rong, lá đó. Con đực ngậm trứng cá cái đẻ ra, nuôi dưỡng con nhỏ… (thường từ chạng vạng tối đến sáng hôm sau). Xong việc sinh sản, lập tức tách cá đực – cái ra. Nếu không, con đực “tiếp tục” với con cái, có khi làm hư vây – đuôi con cái. Riêng với cá đực Thái Lan, một hồ chỉ thả một con để tránh chúng chọi nhau giành mái.

Loại cá đẻ trứng trên tấm bảng (cá ông tiên)

Để tấm nilông xanh hay đá ốp lát. Tấm nhựa nilông dày 0,05 mm cắt thành hình chữ nhật 6 x 12 cm để nghiêng góc 450, cố định trên đế cao 10 cm làm tổ cho cá ông tiên (đầu vàng, đốm đen, uyên ương…). Lúc đẻ, con cái ở phía trước đẻ trứng đều đặn lên tấm bảng, con đực theo sát phía sau, hoàn thành việc thụ tinh trên trứng, toàn bộ quá trình trật tự không lộn xộn. Xong, cả cá đực, cá cái dùng vây ngực quạt nước, chăm sóc trứng. Khoảng cách giữa hai lần sinh là 12 ngày.

Loại cá đẻ trứng trong chậu hoa (chủ yếu là loại cá từ điêu như phượng hoàng bảy màu, cá quýt…)

Cho chậu hoa vào trong đáy hồ. Hai cá đực cái dùng miệng làm sạch chậu hoa, sau khi cá sanh xong, lấy chậu hoa ra, đặt vào hồ có dưỡng khí để ấp. Nhiệt độ từ 27 – 28 độ C trong nước sinh sản là thích hợp. Riêng cá ông tiên bảy màu cũng dùng chậu hoa làm tổ nhưng chọn hoa màu tím để chúng đẻ bên vách ngoài chậu hoa…

Loại cá ấp trứng trong miệng (như cá rồng, cá trích châu Phi, cá miểng sành ngăn châu Phi…)

Loại cá này có sở thích làm tổ trong cát, con cái canh giữ ngoài tổ, con đực dụ con cái vào trong tổ và phóng tinh. Con cái vừa đẻ vừa dùng miệng ngậm trứng đã được thụ tinh vào miệng rồi ấp trứng trong miệng. Sau 7 – 8 ngày trứng nở thành con. Cá con bơi đi ăn nhưng có động, tụ tập lại tại miệng cá mẹ, cá mẹ ngậm vào họng bảo vệ con.

Ngoài ra, các loài cá heo, dứa vàng làm tổ ngay và đẻ trứng trên nham thạch láng.

Loại cá đẻ con:

Có những loài cá đẻ con ngay từ lúc mới sinh, các cá con đã bơi được tự do và vóc dáng như bố mẹ chúng thu nhỏ lại. Tất nhiên là trong bể nuôi có nhiều cây cỏ và cả một thảm cây nổi, có thể làm cho chúng thoát khỏi sự ăn thịt của cá bố mẹ.

Như vậy, công việc nhân giống cá không ít lý thú và khi biết các đặc tính của cá thì người kinh doanh dễ thành công hơn.

4. Chuẩn bị bể cho cá đẻ

Bể sinh sản không nên có mật độ cá quá dày. Trong bể, cần có dụng cụ lọc bằng bọt bể là tốt nhất vì không gây hại cho cá con.

Tuy nhiên do không gian bị giới hạn, thường ta khó tách chúng ra và tìm cho chúng một nơi sinh đẻ chắc chắn, do vậy mà trứng hay cá bột vừa lớn thường bị cá lớn ăn thịt. Có hể giải quyết vấn đề này bằng cách tạo những bể nuôi riêng biệt, trong đó chỉ để cá sắp sinh sản. Bể cách ly này sẽ đáp ứng được yêu cầu trên.

5. Yêu cầu về nước và nhiệt độ

Phẩm chất của nước và nhiệt độ của bể sinh sản và bể nuôi chính phải giống nhau. Nếu như cá sinh sản cần có những điều kiện tồn tại khác hẳn (ví dụ như để kích thích sự đẻ trứng), ta phải làm cho cá thích nghi với môi trường mới một thời gian; có như vậy mới có đủ điều kiện thay đổi phẩm chất của nước mà không gây choáng hay rối loạn ở cá. Bể sinh sản của cá đẻ con cũng chỉ dành cha cá cái có thai và chỉ cho chúng vào đó vào đầu thời kỳ có chửa.

Trước hết là chú ý môi trường nước. Người cẩn thận cho than hoạt tính vào túi nilông hoặc thùng sắt tròn có tráng men rồi cho nước máy chảy vào để lọc. Sau đó, đun chứa vào các hồ chứa sạch làm nước nuôi dưỡng cá hàng ngày, làm môi trường cho cá sinh sản.

Một phương pháp lọc nước khác mà người nuôi cá áp dụng là dùng chất hóa học cao phân tử. Chất này lọc các phân tử calci, ma-nhê, muối gốc acid trong nước để nước trở thành nước trung tính, thích hợp dùng làm môi trường sinh sản cho nhiều loại cá họ chép, từ điêu…

Người kỹ hơn thì chưng cất nước: dùng phương pháp điện giải và phân tích bằng điện cực âm – dương. Sau đó, hòa chung với nước sạch để có độ cứng và tích kiềm – acid không đồng đều, thỏa mãn yêu cầu nước dùng sinh sản cho các loại cá khác nhau.

Ở nông thôn người nuôi cá thường hứng nước mưa. Nước mưa có hàm lượng phân tư ãkim loại rất ít, thích hợp cho việc dùng sinh sản các loại cá chép. Người ta không hứng nước theo mái nhà mà hứng giữa trời. Đặc biệt, chọn các vùng chưa ô nhiễm khói, bụi trong không khí.

Muốn nhân cá giống, thường phải học hỏi kinh nghiệm, tự trang bị kiến thức và thận trọng thực hành.

Trước hết là tìm hiểu từng đặc điểm sinh sản để biết cách mà áp dụng.

6. Chọn cá đẻ

Do đặc điểm sinh lý của mỗi loài cá có sự khác nhau, cho nên kỹ thuật cho cá đẻ ở mỗiđối tượng đều có sự khác nhau. Dù là cá đẻ trứng hay đẻ con, điều quan trọng trước tiên là tìm cho đúng một cặp, một trống, một mái. Thường thì cá đực có vây hậu môn biến đổi khác với cá cái. Ở các cá đẻ trứng, ít có sự khác biệt rõ rệt, nhưng có một số đặc tính có thể giúp xác định cá đực hay cá cái. Thông thường cá đực mảnh hơn và có màu sắc sặc sỡ hơn, và các vây khá phát triển. Trong bể nuôi, các loài cá thuộc họ cá rô phi thường tự lựa chọn cá khác giống để ghép đôi.

Cá chọn để sinh sản phải là cá khỏe mạnh, không bị bệnh hoặc biến dạng. ta cần chọn cá có những điểm mạnh như là có màu sắc đẹp, vây phát triển tốt v.v… Điều đó có ý nghĩa khi ta muốn cá con sẽ có màu sắc mà ta thích hoặc có vây đẹp.

Trước khi cho cá ghép đôi, người ta thường nuôi tách riêng cá đực và cá cái. Suốt trong thời kỳ này, phải chăm sóc và có chế độ nuôi dưỡng đặc biệt. Cách làm này sẽ đảm bảo là cá cái có trứng tốt. Nếu cá cái chưa sẵn sàng chịu đực thì cá đực thường săn đuổi và cắn cá cái. Vì lẽ đó mà người ta thường thả cá cái vào bể sinh sản trước; bể này sẽ là lãnh địa của nó và nếu ta thả cá đực vào, nó sẽ ve vãn cá cái. Người ta cũng có thể cho đồng thời cả cặp cá vào bể sinh sản bằng cách dùng một vách ngăn bằng kính hay nhựa để phân tách ra. Đến khi cặp cá đã sẵn sàng, ta chỉ cần cất vách ngăn cho chúng tiếp xúc với nhau.

7. Chăm sóc cá đẻ

Lúc cá sinh đẻ và giai đoạn kế tiếp, cần đặc biệt quan tâm đến cá. Một số cá đực ve vãn cá cái nồng nhiệt và tiếp tục quấy rầy con mái ngay cả sau sự thụ tinh; một số khác ngược lại, lại xua đuổi cá cái mà không chấp nhận ghép bắt cặp ngay từ đầu.

Có những loài cá không quan tâm đến trứng đẻ ra, có khi cá cái ăn trứng. Trong trường hợp này, người nuôi phải đưa cá cái sau khi đẻ ra khỏi bể nuôi, chỉ để cho cá đực chăm sóc con, hoặc có thể đưa cả cặp trống mái ra và ấp trứng một cách nhân tạo bằng cách đặt một miếng đá bọt gần trứng và để cho dòng nước chảy thay thế chuyển động quạt vây của cá bố mẹ. Làm như vậy, cá vẫn đủ ôxy để sinh trưởng.

Trứng cá họ Cá chép răng thường được đẻ ra trong các bụi cây tự nhiên, trên lớp than bùnở đáy bể. Tùy theo loài cá, ta phải thu nhặt trứng và cho nở ở nước ít sâu, có thể để chúng trong 1-2 tháng trong than bùn hầunhư khô trước khi nhúng lại vào nước để thúc đẩy sự nở trứng. Do cá đực thường khỏe hơn, trong thực tế, người ta thường xếp 1 cá đực cùng với hai cá cái. Trong trường hợp những loài cá làm tổ bọt, tốt nhất là mang cá cái ra khỏi bể sau khi trứng đã thụ tinh; cá đực sẽ bảo vệ tổ và trứng một cách nồng nhiệt.

Sau khi cá đã sinh đẻ, nên để cho cá đẻ con nghỉ vài hôm cho lại sức rồi mới cho chúng vào bể nuôi chính.

9. Nuôi cá con

Kể từ lúc bắt đầu bơi được, cá con đã cần đến thức ăn, nhưng chính trong giai đoạn chưa bơi thực sự này, cá có thể sống nhờ chất dự trữ ở túi noãn hoàng. Không cần cho ăn vội, vì lúc này cá cũng chưa biết ăn, do vậy thức ăn thừa sẽ làm ô nhiễm bể.

Thức ăn đầu tiên của cá phụ thuộc vào kích thước của cá, vì các loài cá nở ra hoặc được đẻ ra thường có kích thước khác nhau. Thường thì cá con của các loài làm tổ và đẻ trứng phân tán tỏ ra không ham ăn như cá con của họ Cá rô phi và cá đẻ con.

Ngày nay, người ta đã sản xuất ra đủ loại thức ăn riêng biệt thích hợp dưới dạng lỏng, bột, nhão, bột mịn và tổng hợp để cung cấp cho nhu cầu của cá đẻ trứng và cá đẻ con. Có loại nước màu lục có chứa trùng cỏ rất thích hợp cho cá bột còn nhỏ. Các loại giun nhỏ, rận nước … đều tốt đối với phần lớn cá nhỏ, những thức ăn lý tưởng cho cá bột đều ăn được là Artemia. Cá con lớn nhanh sẽ tìm ăn giun, bột ngũ cốc, và các loại thức ăn tổng hợp.

Ở các loài cá họ Cá sặc, như cá chọi Betta splendens và cá tai tượng … rất kỵ luồng gió lạnh có thể xâm nhập qua nắp bể, do đó khi nuôi phải chú ý che chắn chỗ có gió lùa.

Cá con cần cho ăn liên tục. Khi cá đã lớn, cần phải định kỳ thay một phần nước cũ, tăng lưu lượng thông khí và tăng hệ thống lọc. Sự tăng vận chuyển của nước và thay nước mới sẽ làm tăng sự sinh trưởng điều hòa của cá. Khi cá đã lớn, có hình dạng và màu sắc riêng biệt của cá bố mẹ, cần loại hết các cá ốm yếu, chậm chạp. các cá con không có màu và vây phát triển bình thường cũng nên loại bỏ. Lựa chọn cá đẹp đẻ nuôi, để tạo giống là cần thiết.

Như các bạn đã biết, đa số các giống cá cảnh đều có khả năng chu toàn thiên chức làm cha mẹ của mình đối với ổ cá con của chúng. Thế nhưng, cũng có nhiều giống chỉ có cá cha hay cá mẹ mới làm tròn thiên chức cao quý này thôi. Con còn lại một là chểnh mảng trong việc nuôi con, hai là có tật ăn trứng, ăn con, khiến trứng đẻ thì nhiều, con nở cũng lắm, nhưng cuối cùng sống sót không được bao nhiêu.

Để cứu vãn tình hình quá xấu này, tuỳ từng trường hợp mà ta nên có cách xử lý kịp thời để cứu nguy cho ổ cá, đồng thời để đảm bảo cho nguồn lợi của mình:

Trường hợp cá cha hay cá mẹ ăn trứng hoặc ăn cá con: Phải biết chắc chắn cá nào có tật đó thì vớt ra ngoài sau khi nó đẻ trứng xong. Thông thường giống cá cảnh nào mà một trong hai con cha, mẹ sau khi để lại quay sang ăn trứng thì con còn lại nuôi con rất giỏi. Ta nên đặt hết niềm tin vào con cá đó mà cứ để cho nó tự nuôi con.

Trường hợp một trong hai cá cha hoặc mẹ bị chết: Gặp trường hợp này ta phải nuôi “bộ” ổ trứng đó, nếu biết chắc con cá còn lại không đủ khả năng nuôi sống đàn con sau này.

Trường hợp ổ cá con quý hiếm: Dù cá cha mẹ đầy đủ, nhưng biết chắc một trong hai con đó nuôi con không giỏi, mà bầy con lại rất hiếm quý, bán được giá cao thì ngay từ đầu ta nên khéo léo cách ly cá cha mẹ ra khỏi ổ trứng mà nuôi “bộ”, như vậy mởi bảo toàn được ổ cá con

Vậy thế nào là nuôi “bộ”?

Nuôi bộ là cách nuôi không cần đến cá cảnh cha mẹ. Sau khi cá cha mẹ đẻ trứng vào cọng rong, vào rễ cây lục bình hoặc trên viên ngói (tuỳ theo thói quen của từng giống) ta làm liền một trong hai cách sau đây:

Vớt hết cá cha mẹ ra ngoài nuôi riêng. Coi như việc đẻ trứng của chúng lứa này đã hoàn thành. Ổ trứng để lại tại hồ để ta có cách nuôi riêng.

Nhẹ tay cẩn thận dời ổ trứng ra ngoài, đặt trong một hồ khác đã chuẩn bị sẵn để chờ ngày cá nở. Trong trường hợp này thì cá cha mẹ vẫn còn ở lại hồ cũ.

Hồ nuôi bộ ổ cá cần phải chuẩn bị kỹ với những dụng cụ như sau:

Máy cung cấp dưỡng khí: nên cung cấp dưỡng khí liên tục suốt ngày đêm vào nước hồ từ ngày đầu ấp trứng.

Nước hồ phải sạch và hồ phải đặt vào nơi thoáng mát, yên tĩnh mới tốt. Chỉ sử dụng máy lọc nước khi cá con đã được vài tuần tuổi.

10. Thức ăn cho cá con

Cá cảnh con nở trong ba bốn ngày đầu không cần phải cho ăn, mà có cho ăn chúng cũng không biết ăn. Trong thời gian này cơ quan tiêu hoá của cá chưa phát triển đầy đủ nên chưa hấp thu được thức ăn, nhưng cá con vẫn không đói vì còn những chất dinh dưỡng dự trữ trong thân cá.

Thức ăn ban đầu của cá con là những sinh vật cực nhỏ như bo bo chẳng hạn. Có thể cho cá con ăn lòng trắng trứng. Cá một tuần trở đi, có thể biết ăn lăng quăng, biscotte. Vài tháng tuổi trở về sau, cho ăn trùn chỉ, thức ăn hỗn hợp ….

11. Cách làm biscotte cho cá cảnh ăn

Dùng bột mì hay bánh mì khô hay gạo rang cho vào cối giã nhuyễn thành bột mịn. Cứ một lon bột ta trộn chung độ 5 cái lòng đỏ hột gà (hay hột vịt) rồi đem phơi nắng thật khô. Sau đó bóp nhuyễn rồi rây lại để lấy bột mịn dành cho cá ăn từ từ.

Mỗi lần cho cá ăn, ta rắc bột biscotte lên mặt nước hồ để cá con trồi lên ăn. Đây là thức ăn bổ dưỡng cá cảnh con rất thích ăn.

Nuôi bộ mà nuôi khéo, tỷ lệ hao hụt cá con không nhiều. Những nghệ nhân nuôi cá cảnh nhiều kinh nghiệm thường áp dụng cách nuôi bộ này và cũng nhờ đó mà thúc đẩy cá mẹ mau để lứa sau.

Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Nuôi Yến Phụng Sinh Sản trên website Topcareplaza.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!